✨Đảo Alor

Đảo Alor

Đảo Alor là đảo lớn nhất trong quần đảo Alor, nằm ở rìa phía đông của nhóm các đảo gọi chung là quần đảo Nusa Tenggara (quần đảo Sunda Nhỏ) chạy dọc theo miền nam Indonesia, từ phía tây sang phía đông bao gồm các đảo lớn như Bali, Lombok, Sumbawa, Komodo và Flores.

Về phía đông của đảo này, vượt qua eo biển Ombai là các đảo Wetar và Atauro với Atauro thuộc về Đông Timor. Về phía nam, qua một vùng biển thuộc biển Savu là phần phía tây của đảo Timor. Ở phía bắc là biển Banda. Về phía tây là các đảo Pantar và các đảo khác trong quần đảo Alor và xa hơn nữa, qua eo biển Alor là phần còn lại của quần đảo Nusa Tenggara.

Địa lý

Đảo Alor có diện tích khoảng 2.800 km² và như thế nó là đảo lớn nhất trong quần đảo Alor.

Kalabahi là thị trấn duy nhất trên đảo Alor, với dân cư vùng đô thị khoảng 60.000.

Đảo Alor là đảo có nguồn gốc từ núi lửa và có địa hình rất gồ ghề. Khu vực gần Kalabahi là vùng bằng phẳng duy nhất. Nó cũng là nơi người Hà Lan đặt thủ phủ và hải cảng chính (Alor-Kecil) trên đảo này từ năm 1911.

Khu vực dành cho những người ưa thích lặn ngầm dưới biển được coi là "tốt nhất" tại Indonesia có thể tìm thấy trong khu vực ven quần đảo Alor. Do dòng chảy ngầm khá mạnh nên tốt nhất chỉ lặn khi có những người am hiểu tương đối rõ địa hình khu vực.

Giao thông tới đảo Alor do TransNusa Trigana Air cung cấp, với các chuyến bay từ Kupang, Denpasar và Surabaya.

Kinh tế

Hạ tầng cơ sở của đảo Alor còn rất yếu kém. Cư dân trên đảo chủ yếu sống bằng nghề nông nghiệp tự cung tự cấp. Chính quyền Indonesia thực hiện một số chính sách nhằm thay đổi điều này với sự trợ giúp từ một số tổ chức quốc tế. Trong các khu làng, người dân trồng vani, me, hạnh và một vài loại cây lấy hạt khác. Trong khu vực rừng, người ta đốn hạ các loại cây đàn hương để buôn bán, trao đổi gỗ.

Các khảo sát địa chất gần đây nhất phát hiện các nguồn có giá trị chứa thạch cao, kaolin, dầu mỏ, khí thiên nhiên, thiếc, vàng và kim cương.

Được đánh giá cao đối với việc lặn nên đảo Alor có thể sẽ là điểm thu hút du khách trong tương lai khi các điều kiện hạ tầng cơ sở tốt hơn. Tuy nhiên, việc khai thác đánh bắt cá theo kiểu tận thu có nguy cơ gây tổn thất nặng đối với các rạn san hô trong những năm gần đây.

Tôn giáo

Trên 168.000 người sinh sống trên đảo Alor. Ba phần tư dân số theo đạo Tin Lành, phần còn lại hoặc là theo Hồi giáo hoặc là theo Công giáo. Các nghi lễ theo tín ngưỡng dân gian và vật linh vẫn còn được tuân thủ khá mạnh.

Ngôn ngữ

Trên 15 ngôn ngữ bản địa khác nhau được sử dụng tại Alor, phần lớn trong số này được phân loại thuộc về nhóm ngôn ngữ Papua hay phi-Austronesia. Chúng bao gồm các ngôn ngữ như Abui, Adang, Hamap, Kabola, Kafoa, Woisika, Kelon và Kui. Ngoài ra, tiếng Alor (Bahasa Alor; ISO 693-3: aol) là ngôn ngữ thuộc ngữ tộc Mã Lai-Polynesia cũng được sử dụng dọc theo vùng duyên hải phía tây và nam mũi đất Bird của đảo Alor và tại các khu vực quanh đảo này.

Nhiều ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ Papua tại Alor đang có nguy cơ biến mất do không còn nhiều người biết tới, nhất là trong số trẻ em. Một vài ngôn ngữ không còn quá 1.000 người sử dụng. Các cố gắng đáng kể nhất gần đây trong việc lập hồ sơ tài liệu các ngôn ngữ này được Đại học Leiden tiến hành.

Ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày là tiếng Alor Mã Lai, biến thể duy nhất nguồn gốc Mã Lai, tương tự nhưtiếng Kupang Mã Lai. Tiếng Indonesia được giảng dạy tại các trường học và sử dụng rộng rãi trong phương tiện thông tin đại chúng.

Giao thông

Trong mùa khô, Kalabahi có các chuyến bay (5 lần/tuần) từ Kupang, thủ phủ tỉnh, sử dụng máy bay ATR 42 với 46 chỗ ngồi do TransNusa Trigana Air (Trigana Air Service) và Kasa 18 chỗ ngồi. Các chuyến bay này do Merpati Airlines điều hành. Phần lớn các chuyến bay là tuyến Kupang - Kalabahi - Kupang, nhưng từ giữa năm 2003 thì có thêm một tuyến bay mới gồm các điểm dừng Kupang - Kalabahi - Kisar - Ambon, trở về ngày hôm sau đã được khai thác. Hai tàu thủy chở khách của Pelni là Serimau và Awu cũng rẽ vào Kalabahi mỗi tuần. Vận tải tới đảo Alor về mùa mưa đôi khi bị gián đoạn do gió to và sóng lớn.

Ngày 17 tháng 11 năm 2006, Trigana Air hứng chịu tai nạn máy bay rơi đầu tiên của mình. Máy bay (de Havilland Canada DHC-6 Twin Otter 300) đâm vào núi tại Puncak Jaya (Indonesia) bảy phút trước khi được phép hạ cánh tại tỉnh Papua của Indonesia. Tất cả 12 hành khách đều chết ngay sau khi sự cố xảy ra.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Đảo Alor** là đảo lớn nhất trong quần đảo Alor, nằm ở rìa phía đông của nhóm các đảo gọi chung là quần đảo Nusa Tenggara (quần đảo Sunda Nhỏ) chạy dọc theo miền nam
phải|Đảo lớn nhất (Alor) trong quần đảo Alor có màu đỏ trên bản đồ này. **Quần đảo Alor** là một nhóm các đảo nằm ở rìa phía đông của quần đảo Nusa Tenggara (quần đảo
**Eo biển Alor** (còn gọi là Alloo ), là một eo biển chia tách quần đảo Solor ra khỏi quần đảo Alor trong nhóm các đảo thuộc Quần đảo Nusa Tenggara (quần đảo Sunda Nhỏ)
**Động đất Alor 2004** () là trận động đất xảy ra vào lúc 05:26 (WITA), ngày 12 tháng 11 năm 2004. Trận động đất có cường độ 7,5 Mw, tâm chấn độ sâu khoảng 10 km.
**Quần đảo Solor** () là một nhóm các đảo trong nhóm lớn hơn gọi là quần đảo Nusa Tenggara (quần đảo Sunda Nhỏ) trong lãnh thổ của Indonesia, với giới hạn về phía tây là
**Quần đảo Sunda** là một nhóm các đảo ở phía tây của quần đảo Mã Lai. Chúng được chia thành 2 nhóm: phải|Malay Archipelago * Quần đảo Sunda Lớn ** Borneo ** Java ** Sumatra
frame|phải|Bản đồ các đảo Đông Nusa Tenggara, bao gồm cả đảo Pantar. **Pantar** (tiếng Indonesia: _Pulau Pantar_) là đảo lớn thứ hai trong nhóm đảo gọi là quần đảo Alor thuộc Indonesia, chỉ sau đảo
**Tiếng Abui** là một ngôn ngữ phi Nam Đảo, bản ngữ của người Abui. Nó được nói ở trung phần đảo Alor thuộc quần đảo Alor, tỉnh Đông Nusa Tenggara (NTT), Indonesia. Tên của ngôn
**Eo biển Ombai** () là một eo biển chia tách quần đảo Alor ra khỏi các đảo như Wetar, Atauro, Timor trong nhóm đảo thuộc quần đảo Nusa Tenggara (quần đảo Sunda nhỏ). Wetar, quần
thumb|Bản đồ Indonesia. Đây là danh sách các hòn đảo của quần đảo Indonesia. Indonesia gồm 17.508 - 18.306 hòn đảo và 8.844 đảo trong số đó đã được đặt tên theo ước tính của
**Quần đảo Barat Daya** là một quần đảo ở tỉnh Maluku của Indonesia. Cụm từ Indonesia Barat Daya có nghĩa là phía nam-tây '. Cụm đảo này gồm những đảo sau đây, gồm những đảo
**Alor Setar** - hay còn gọi là **Alor Star** trong giai đoạn 2004-2008 - là thủ phủ bang Kedah của Malaysia, đồng thời là trung tâm hành chính huyện Kota Setar. Thành phố là nơi
Bản đồ các đảo [[Đông Nusa Tenggara, bao gồm cả Lembata (viết là Lomblen trên bản đồ).]] **Lembata** là một đảo thuộc nhóm các đảo gọi chung là quần đảo Nusa Tenggara (quần đảo Sunda
phải|quần đảo Maluku **Wetar** là một hòn đảo thuộc tỉnh Maluku ở phía đông của Indonesia. Đây là đảo lớn nhất của quần đảo Barat Daya (nghĩa là _quàn đảo tây nam_). Wetar nằm ở
Vị trí đảo Flores **Flores** là một trong các đảo thuộc nhóm các đảo gọi chung là quần đảo Nusa Tenggara (quần đảo Sunda Nhỏ), một vòng cung đảo trải dài từ phía đông đảo
**Kedah** (Chữ Jawi: حدق) là một bang của Malaysia, bang nằm ở phần tây bắc của Bán đảo Malaysia. Tổng diện tích của bang là trên 9.000 km², bao gồm phần lục địa và đảo Langkawi.
**Biển Savu** (hay **biển Sawu**) là một biển nhỏ nằm trong vùng nước thuộc Indonesia, được đặt tên theo đảo Savu (Sawu) nằm ở ranh giới phía nam của nó. Nó có ranh giới phía
**_Pseudojuloides severnsi_** là một loài cá biển thuộc chi _Pseudojuloides_ trong họ Cá bàng chài. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 2000. ## Từ nguyên Từ định danh của loài được
thumb|Phân bố các ngôn ngữ Papua, màu đỏ. Còn lại là vùng [[ngữ hệ Nam Đảo và vùng lịch sử của ngữ hệ thổ dân Úc.]] **Các ngôn ngữ Papua** là tập hợp địa lý
**_Plectranthias winniensis_** là một loài cá biển thuộc chi _Plectranthias_ trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1966. ## Phân bố và môi trường sống _P. winniensis_ có
thumbnail **Ambon** (tiếng Indonesia: **Kota Ambon** hay **_Ambong_** trong tiếng Ambon) là tỉnh lỵ và thành phố lớn nhất tỉnh Maluku. Thành phố nằm trên đảo Muluku Thành phố cũng có tên gọi , có
**_Eviota rubrisparsa_** là một loài cá biển thuộc chi _Eviota_ trong họ Cá bống trắng. Loài cá này được mô tả lần đầu tiên vào năm 2010. ## Từ nguyên Từ _rubrisparsa_ trong danh pháp
**_Papilio demoleus_**, là một loài bướm phượng, không giống như các loài bướm phượng khác, nó không có đuôi nổi bật. Loài này là loài gây hại và xâm lấn từ Cựu Thế giới và
**_Papilio clytia_** là một loài bướm thuộc họ Bướm phượng (Papilionidae) được mô tả bởi Linnaeus năm 1758. Loài bướm này được tìm thấy ở Nam Á và Đông Nam Á. Loài bướm này là
**_Theretra alorica_** là một loài bướm đêm thuộc họ Sphingidae. Nó được tìm thấy ở đảo Alor, part of miền đông quần đảo Nusa Tenggara của Indonesia.
thumb||Trống đồng Đông Sơn **Trống đồng** (; Hán Việt: **đồng cổ**) là một loại nhạc cụ gõ bằng đồng hiện diện tại vùng Đông Nam Á và miền Nam Trung Quốc, xuất hiện từ thời
**_Cirrhilabrus humanni_** là một loài cá biển thuộc chi _Cirrhilabrus_ trong họ Cá bàng chài. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 2012. ## Từ nguyên Từ định danh _humanni_ được đặt
**_Chromis pura_**, thường được gọi là **cá thia Pura**, là một loài cá biển thuộc chi _Chromis_ trong họ Cá thia. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 2004. ## Phân bố
Đây là danh sách những trường hợp được cho là đã nhìn thấy vật thể bay không xác định hoặc UFO ở Indonesia. * Vụ chứng kiến UFO ở Medan, Sumatra ngày 28 tháng 1
**_Asota suffusa_** là một loài bướm đêm thuộc họ Erebidae. Nó được tìm thấy ở đảo Alor, Flores và Sumbawa ở Indonesia. Sải cánh dài khoảng 56 mm.
Tun Dr. **Mahathir bin Mohamad** (Jawi: ; ; sinh ngày 10 tháng 7 năm 1925) là một chính trị gia Malaysia từng giữ chức thủ tướng Malaysia. Ông được bổ nhiệm làm thủ tướng năm
**Chi Yểng** (danh pháp khoa học: **_Gracula_**) là một chi chim trong họ Sturnidae. ## Các loài Năm loài được công nhận là: * _Gracula religiosa_ - Yểng, nhồng, sáo đá. ** _G. r. peninsularis_
**Yểng** hay **nhồng** hoặc **sáo đá** (danh pháp khoa học: **_Gracula religiosa_**) là một loài chim thuộc Họ Sáo (Sturnidae) sống ở các khu vực đồi núi Nam Á và Đông Nam Á. ## Phân
**AH2** là một tuyến đường bộ của hệ thống xa lộ xuyên Á với tổng chiều dài từ Denpasar, Indonesia đi qua Merak, Singapore và kết thúc ở Iran. ## Các đoạn tuyến ### **Indonesia**
Malaysia là một liên bang bao gồm 13 bang và 3 lãnh thổ liên bang. 11 bang nằm trên Bán đảo Mã Lai và 2 bang nằm trên đảo Borneo. ## Tây Malaysia, trên Bán
**_Attacus_** là một chi bướm đêm thuộc họ Saturniidae họ. Chi này có bướm đêm Atlas, loài bướm đêm lớn nhất thế giới. ## Các loài *_Attacus atlas_ (Linnaeus, 1758) *_Attacus aurantiacus_ Rothschild, 1895 (quần
**Eo biển Alas** chia tách Lombok và Sumbawa, hai hòn đảo của Indonesia thuộc tỉnh Tây Nusa Tenggara. Eo biển vốn là một cầu đất liền cho đến 14.000 năm trước khi mực nước biển
**Mã Lai thuộc Anh** () là một trong những thuộc địa của Đế quốc Anh, bao gồm Định cư Eo biển (thành lập năm 1826), Liên bang Mã Lai (thành lập năm 1895) và năm
**_Meiacanthus cyanopterus_** là một loài cá biển thuộc chi _Meiacanthus_ trong họ Cá mào gà. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 2011. ## Từ nguyên Từ định danh _cyanopterus_ được ghép