✨Chử Đồng Tử

Chử Đồng Tử

thumb|Tượng Chử Đồng Tử tại Đền Dạ Trạch Chử Đồng Tử () một nhân vật truyền thuyết, thần thoại và là một vị thánh nổi tiếng, sống ở thế kỷ thứ IV-III TCN (vào khoảng năm 300 TCN, thời Hùng Duệ Vương). Về sau, ông thường được liệt vào một trong Tứ bất tử của tín ngưỡng Việt Nam.

Truyền thuyết về ông là một trong những truyền thuyết sớm nhất được ghi chép trong Lĩnh Nam chích quái với tên gọi Nhất Dạ Trạch (Đầm một đêm).

Truyền thuyết

Tương truyền rằng, vào thời Hùng Vương thứ 18 (Hùng Duệ Vương), Chử Đồng Tử sống cùng cha là Chử Cù Vân (渚衢雲), Chử Vi Vân (渚微雲), hoặc Chử Vi Tử (渚微子), tại thôn Chử Xá, xã Văn Đức (nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội). Chẳng may nhà cháy, mất hết của cải, hai cha con chỉ còn lại một chiếc khố phải thay nhau mà mặc. Lúc người cha lâm chung, ông gọi con lại bảo rằng hãy giữ chiếc khố lại cho bản thân. Thương cha nên Chử Đồng Tử liệm khố theo cha, mình thì chịu cảnh trần truồng khổ sở, kiếm sống bằng cách ban đêm câu cá, ban ngày dầm nửa người dưới nước, đến gần thuyền bán cá hoặc xin ăn.

Thời ấy, Vua Hùng ngành (nhành) thứ 18 là Hùng Duệ Vương (Lĩnh Nam chích quái ghi là đời thứ 3, được hiểu là đời vua thứ 3 trong thế hệ thứ 18) có cô con gái tên là Tiên Dung, đến tuổi cập kê mà vẫn chỉ thích ngao du sơn thủy, không chịu lấy chồng. Một hôm thuyền rồng của Tiên Dung đến thăm vùng Chử Xá. Nghe tiếng chuông trống, đàn sáo lại thấy nghi trượng, người hầu tấp nập, Chử Đồng Tử hoảng sợ vội vùi mình vào cát lẩn tránh. Thuyền ghé vào bờ, Tiên Dung dạo chơi rồi sai người quây màn ở bụi lau để tắm, ngờ đâu đúng ngay chỗ của Chử Đồng Tử. Nước xối dần để lộ thân hình Chử Đồng Tử dưới cát. Tiên Dung kinh ngạc bèn hỏi han sự tình, thấy chàng hiếu thảo, bản tính thật thà, khôi ngô cường tráng, thú vị hiếm có, tâm sinh ý yêu thích, nghĩ ngợi rồi xin được cùng nên duyên vợ chồng.

Hùng Vương nghe chuyện thì giận dữ vô cùng, không cho Tiên Dung về cung. Nàng biết ý nên cùng chồng mở chợ Hà Thám, đổi chác với dân gian. Buôn bán tấp nập, phồn thịnh, ai cũng kính thờ Tiên Dung và Chử Đồng Tử làm chúa. Một hôm, có người bày cho cách ra ngoài buôn bán nhiều lãi, Tiên Dung khuyên chồng nghe theo. Chử Đồng Tử bèn theo khách buôn đi khắp ngược xuôi. Một hôm qua ngọn núi giữa biển tên Quỳnh Viên sơn (瓊園山), (nay là núi Nam Giới thuộc Thạch Hà, Hà Tĩnh), Chử Đồng Tử trèo lên am trên núi và gặp một tăng sĩ tên Phật Quang. Chử Đồng Tử bèn giao tiền cho khách buôn đi mua hàng, còn mình thì ở lại học phép thuật. Sau thuyền quay lại đón, Phật Quang tặng Chử Đồng Tử một cây gậy và một chiếc nón lá, dụ rằng đây là vật thần thông.

Về nhà, Chử Đồng Tử truyền mọi sự lại cho vợ. Tiên Dung giác ngộ bèn bỏ việc buôn bán, cùng chồng chu du tìm thầy học đạo. Một hôm tối trời, đã mệt mà không có hàng quán ven đường, hai vợ chồng dừng lại cắm gậy úp nón lên trên cùng nghỉ. Bỗng nửa đêm, chỗ đó nổi dậy thành quách, cung vàng điện ngọc sung túc, người hầu lính tráng, văn võ bá quan lẫn tiên đồng ngọc nữ đều sẵn sàng để hầu hạ. Sáng hôm sau, dân chúng quanh vùng kinh ngạc bèn dâng hương hoa quả ngọt đến xin làm bầy tôi. Từ đấy chỗ đó phồn thịnh, sung túc như một nước riêng.

Nghe tin, Hùng Vương cho là có ý tạo phản, vội xuất binh đi đánh. Quân nhà vua đến, mọi người xin ra chống cự nhưng Tiên Dung chỉ cười và từ chối không kháng cự cha mình. Trời tối, quân nhà vua đóng quân ở bãi cát cách đó một con sông. Đến nửa đêm bỗng nhiên bão to gió lớn nổi lên, thành trì, cung điện và cả bầy tôi của Tiên Dung và Chử Đồng Tử phút chốc bay lên trời. Chỗ nền đất cũ bỗng sụp xuống thành một cái đầm rất lớn.

Nhân dân cho đó là điều linh dị bèn lập miếu thờ, bốn mùa cúng tế, và gọi đầm đó là đầm Nhất Dạ Trạch (Đầm một đêm), bãi cát đó là Bãi Tự Nhiên hoặc Bãi Màn Trù và chợ đó là Hà Thị.

Giúp Triệu Quang Phục

Vào đời Hậu Lương, Trần Bá Tiên nhận mệnh đem quân Nam tiến, đánh bại quân lực của Lý Nam Đế.

Lý Nam Đế sai Triệu Quang Phục làm tướng cự địch. Quang Phục đem quân nấp ở đầm Nhất Dạ Trạch trong truyền thuyết. Đầm sâu mà rộng, quân Lương vướng mắc, tiến binh rất khó, Quang Phục dùng thuyền độc mộc đột xuất ra đánh cướp lương thực, cầm cự lâu ngày làm cho quân giặc mệt mỏi, trong ba bốn năm không hề đối diện chiến đấu. Bá Tiên than rằng: "Ngày xưa nơi đây là chằm một đêm bay về trời, nay lại là chằm một đêm cướp đoạt người".

Nhân gặp loạn Hầu Cảnh, Lương Đế bèn gọi Bá Tiên về, ủy cho tì tướng là Dương Sằn thống lĩnh sĩ tốt. Quang Phục ăn chay lập đàn ở giữa đầm, đốt hương mà cầu đảo, bỗng thấy thần nhân cưỡi rồng bay vào trong đàn mà bảo Quang Phục rằng: "Hiển linh còn đó, ngươi có thể cầu tới cứu trợ để dẹp bằng họa loạn".

Dứt lời, tháo vuốt rồng trao cho Quang Phục, bảo: "Đem vật này đeo lên mũ đâu mâu có thể khiến giặc bị diệt". Đoạn bay lên trời mà đi. Triệu Quang Phục được vật đó, reo mừng vang động, xông ra đột chiến, quân Lương thua to. Chém Dương Sằn ở trước trận, quân Lương phải lùi.

Sau đó, Quang Phục nghe tin Nam Đế mất, bèn tự lập làm Triệu Việt vương, xây thành ở Trâu Sơn, huyện Vũ Ninh.

Thờ cúng

Lễ hội Chử Đồng Tử tại Đền Hóa Dạ Trạch Kiệu rước Chử Đồng Tử trong Đền Hóa Dạ Trạch. Đền thờ Chử Đồng Tử bao gồm ba đền chính: Đình Chử Đồng Tử (Chử Xá, Văn Đức, Gia Lâm, Thành phố Hà Nội). Căn cứ nguồn tư liệu thành văn hiện còn lưu lại trong đình Chử Xá như: thần tích, sắc phong, bài vị) và sử sách đều cho biết đình Chử Xá thờ Chử Đồng Tử và Tiên Dung công chúa, Hữu phu nhân. Trong số các vị Thành hoàng của làng thì Đức Thánh Chử Đồng Tử là nổi bật hơn cả. Đức Thánh Chử Đồng Tử cùng với Phù Đổng Thiên Vương, Tản Viên Sơn Thánh, Liễu Hạnh Tiên chúa là bốn vị Thần trong "tứ bất tử" của tín ngưỡng văn hóa truyền thống của người Việt. Đền Hóa, nơi Chử Đồng Tử và Nhị vị phu nhân hóa về trời, được xem là đền thờ được xây dựng trước (khu đền này trước thuộc Làng Đa Hoà, Tổng Mễ Sở nhưng do chia tách địa giới giúp dân chài lưới có đất an cư, lạc nghiệp chính quyền phong kiến đã cắt đất lập ra làng Vĩnh), thuộc thôn Yên Vĩnh, xã Dạ Trạch, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Trong đền thờ còn có ban thờ Triệu Việt Vương (do ngày xưa Triệu Việt Vương đóng quân ở đây - đằng sau đền thờ, sâu dưới đất các nhà khảo cổ đã tìm thấy di tích doanh trại có niên đại thời nước Vạn Xuân). Sau khi chia tách địa giới hành chính, làng Đa Hòa, Tổng Mễ Sở bị mất đất, mất Đền, kiện lên quan đòi lại không được từ đó các cụ cao niên làng Đa Hòa đã đóng đinh ở Đền Hoá lập lời nguyền: không cho con cháu làng Đa Hoà lấy chồng, lấy vợ ở làng Vĩnh, gia đình nào không tuân theo sẽ bị tuyệt tự, tuyệt tôn. Tổng Mễ Sở bị mất đất, mất Đền, lòng dân oán thán quan án sát Chu Mạnh Trinh đã trùng tu ngôi đền cổ ở bờ sông thành ngôi đền chính Đa Hoà (văn bia ở bờ sông ghi rõ: Đa Hòa chính từ bia ký). Do vậy Đền Hoá Dạ Trạch và Đền Chính Đa Hòa đều có chữ "Chính từ". *Đền Đa Hòa thuộc thôn Đa Hòa, xã Bình Minh, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Sau khi bị cắt đất và đền lập ra làng Vĩnh người dân Tổng Mễ khiếu kiện không thành. Năm 1894, án sát Chu Mạnh Chinh cho trùng tu lại ngôi đền ở bờ sông thành ngôi đền Chính Đa Hoà như hiện nay. Bia đá tại Trấn Giang Lâu "Đa Hòa chính từ bia ký" được tạc 2 mặt, ghi lại quá trình xây dựng và sự tích Chử Đồng Tử-Tiên Dung. Ngôi đền có tên Đền chính Đa Hòa là như vậy. Đền Chính Đa Hòa hiện còn giữ được nhiều cổ vật quý như: 30 đạo sắc phong của các triều đại phong kiến phong thần và giao cho nhân dân Tổng Mễ thờ cúng, 3 pho tượng vàng - đồng đen và bình cổ 100 chữ thọ. Hướng của Đền Đa Hòa toạ hướng Tây Nam nhìn ra Sông Hồng.
Đền thờ Đức Thánh Chử Đồng Tử và Nhị vị phu nhân được lập ra và thờ ở nhiều nơi từ Cửa Sót, Hà Tĩnh ra Bắc. Riêng ở Khoái Châu, Hưng Yên cũng có một số đền Làng thờ như: Đình Phương Trù thôn Phương Trù xã Tứ Dân; Đền Ngự Dội Làng Màn Trầu, huyện Đông Yên nay là thôn Toàn Thắng, xã Tứ Dân, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Đền làng Quan Xuyên xã Thành Công huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên; đình Tự Nhiên ở Vĩnh Hưng, huyện Đông An, phủ Khoái Châu nay thuộc xã Tự Nhiên, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội.

Lễ hội Chử Đồng Tử và Tiên Dung

Lễ hội Chử Đồng Tử - Tiên Dung, hay còn gọi là Lễ hội Đa Hòa - Dạ Trạch, là lễ hội cầu tình yêu được tổ chức ở hai ngôi đền là đền Đa Hòa (xã Bình Minh) và đền Hóa (xã Dạ Trạch) cùng huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.

Lễ hội hằng năm đều đ­ược tổ chức như­ng với quy mô tổng (tổng Mễ xưa có 9 làng nay thuộc xã Mễ Sở, huyện Văn Giang và xã Bình Minh, huyện Khoái Châu) thì 3 năm một lần, thời gian vào giữa tháng 2 âm lịch. Lễ mang giá trị văn hóa thần thoại, là bức tranh về Chử Đồng Tử và hành trình đầy huyền thoại của ông đối với những người ở hai xã này.

Truyền thuyết về Hồng Vân

Có thuyết kể rằng, Chử Đồng Tử trong lúc chu du tìm thầy học đạo cùng vợ là Tiên Dung đã lấy thêm một người vợ thứ hai là Hồng Vân. Cả ba người đã giúp dân chữa bệnh. Truyền thuyết này khá rõ ràng là chỉ sinh ra vào thời sau, khi sự thờ phụng Chử Đồng Tử đã cao và sinh ra nhiều dị bản để tăng tính thần thoại cho Chử Đồng Tử.

Hồng Vân công chúa tên thường gọi là Tây Nương, hay Tây Sa, có tài liệu gọi là nàng Nguyễn. Bà sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, đức độ, hiền lành tại làng Đông Miên, huyện Chu Diên (tức thôn Đông Kim, xã Đông Tảo, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên hiện nay). Tương truyền rằng, một đêm nọ mẹ bà mộng thấy một con chim xanh lớn (Thanh Điểu) bay vào màn, rồi hóa thành người con gái đẹp. Tiếp đó, một người đàn bà xuất hiện ngoài màn, tự xưng là Tây cung Vương mẫu (Tây Vương Mẫu), từ thiên đình giáng xuống, đem con xuống gửi nhà người cõi trần trong 3 kỷ (36 năm). Từ đó bà thụ thai, đến ngày mùng 10/2 âm lịch hạ sinh con gái, đặt tên là Tây Nương. Tây Nương lớn lên có sắc đẹp lạ thường chim sa, cá lặn, hoa tủi, trăng hờn.

Chuyện tình duyên giữa Hồng Vân công chúa và Đức thánh Chử Đồng Tử được ghi lại như sau: "Trong một chuyến đi chữa bệnh cho người dân, đức thánh và công chúa Tiên Dung gặp Tây Nương đang cắt lúa bên đường đã tới hỏi chuyện. Thấy nàng có sắc đẹp lạ thường, hiền lành mà đối đáp trôi chảy, Tiên Dung tỏ ra mến phục và kết nghĩa chị em. Sau cuộc trò chuyện "tâm đầu ý hợp" của ba người, Tây Nương đã kết duyên cùng Chử Đồng Tử".

Cũng năm đó, vua Hùng cha của Tiên Dung ốm nặng, không ngự y nào chữa khỏi được. Biết Tây Nương giỏi về chữa bệnh, Tiên Dung đã nhờ nàng vào cung chữa cho vua cha. Sau khi vua Hùng khỏi bệnh định mang vàng bạc, châu báu ra tạ ơn, nhưng nàng không nhận mà trở về chung sống với Chử Đồng Tử - Tiên Dung, tiếp tục chữa bệnh cứu dân.

Sau sự kiện Tam vị đồng thăng, vua Hùng đã sa giá đến nơi để xem xét. Khi đó, vua nhìn lên trời thấy có người con gái cưỡi hạc trắng từ bay đến, tự xưng là Tây cung Vương nữ, vâng mệnh Chử Đồng Tử - Tiên Dung đến tạ phụ vương và xin thứ tội các con. Vua nhận ra đây chính là người chữa khỏi bệnh cho mình lúc trước. Ngài vô cùng hối hận và xúc động và đã phong cho Tây Nương là "Nội trạch Tây cung Tiên nữ – Hồng Vân công chúa". Để tỏ lòng nhớ ơn công ơn của ba vị, dân làng trong vùng và nhiều nơi khác đã lập đền thờ họ.

Nhiều làng thuộc các tỉnh nằm ở hạ lưu châu thổ sông Hồng như Hưng Yên, Hà Nội, Hà Nam đều có thờ đức thánh Chử Đồng Tử, Tiên Dung và Hồng Vân công chúa. Nhưng ở Hưng Yên là có nhiều đền nhất, có 45 làng cùng thờ. Hằng năm vào ngày 10, 12/2 âm lịch, lễ hội Chử Đồng Tử-Tiên Dung lại được diễn ra tại các đền Hóa Dạ Trạch, đền Tránh Đa Hòa (xã Bình Minh) và đền thờ Hồng Vân công chúa (xã Đông Tảo, Khoái Châu) để ghi nhớ công ơn đồng thời tô đậm thêm thiên tình sử muôn đời của đức thánh Chử Đồng Tử, Tiên Dung và Hồng Vân.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|Tượng Chử Đồng Tử tại Đền Dạ Trạch **Chử Đồng Tử** () một nhân vật truyền thuyết, thần thoại và là một vị thánh nổi tiếng, sống ở thế kỷ thứ IV-III TCN (vào khoảng
Lễ hội Chử Đồng Tử diễn ra từ ngày 10 đến 12/2 âm lịch hàng năm tại Đền Đa Hoà và đền Dạ Trạch, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Đây là một lễ hội
**Chủ nghĩa tư bản** (Chữ Hán: 主義資本; tiếng Anh: _capitalism_) là một hệ thống kinh tế dựa trên quyền sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất và hoạt động sản xuất vì
**Chủ nghĩa tự do cá nhân** hay **chủ nghĩa tự do ý chí** (tiếng Anh: _libertarianism_, từ tiếng Latinh: _liber_, tự do) là học thuyết triết học chính trị ủng hộ tự do như là
**Chủ nghĩa tự do** là một hệ tư tưởng, quan điểm triết học, và truyền thống chính trị dựa trên các giá trị về tự do và bình đẳng. Chủ nghĩa tự do có nguồn
**Chủ nghĩa tự do hiện đại Hoa Kỳ** là phiên bản chủ đạo của chủ nghĩa tự do tại Hoa Kỳ. Nó kết hợp ý tưởng của tự do dân sự (_civil liberty_) và bình
**Hệ động từ** (chữ Anh: _Copula_, số nhiều: _Copulae/Copulas_, hoặc _Copular verb, Linking verb_), hoặc gọi là **hệ từ**, **động từ liên hệ**, là động từ dùng để trợ giúp chủ ngữ. Bản thân nó
**Chủ nghĩa tự do cổ điển** là một ý thức hệ chính trị và là một nhánh của chủ nghĩa tự do vận động cho tự do dân sự và tự do chính trị với
**Động từ tiếng Tây Ban Nha** tạo ra một khía cạnh khó của tiếng Tây Ban Nha. Tiếng Tây Ban Nha là một ngôn ngữ tương đối tổng hợp với một mức độ biến tố
[[Friedrich Engels nhận định rằng quyền sở hữu nhà nước không tự xóa bỏ đi chủ nghĩa tư bản.]] **Chủ nghĩa tư bản nhà nước** là một hệ thống kinh tế trong đó nhà nước
Học thuyết **chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước** (cũng được gọi là **stamocap**)) ban đầu là một học thuyết Mác-xít được phổ biến sau Thế chiến II. Lenin đã tuyên bố vào năm
nhỏ|300x300px|Mô hình phát triển tư bản chủ nghĩa của Max Weber **Lịch sử chủ nghĩa tư bản** có nguồn gốc đa dạng và nhiều tranh luận, nhưng chủ nghĩa tư bản chính thức thường được
Trong cấu trúc ngôn ngữ, **chủ ngữ-động từ-tân ngữ** (cấu trúc "subject-verb-object" **SVO**) là một cấu trúc câu trong đó chủ ngữ đứng trước, động từ thứ hai và tân ngữ thứ ba. Các ngôn
**Chủ nghĩa tự do xã hội** () là một ý thức hệ chính trị mà muốn tạo sự quân bình giữa tự do cá nhân và công bằng xã hội. Cũng như chủ nghĩa tự
phải|Áp phích [[Industrial Workers of the World của những người theo chủ nghĩa chống tư bản dán năm 1911. Hình nói về sự mâu thuẫn giai cấp giữa tầng lớp trên và tầng lớp dưới
**Đảng Dân chủ Đông Dương** (tiếng Pháp: _Parti Démocrate Indochinois_, **PDI**) là một chính đảng thành lập năm 1937 tại Sài Gòn bởi luật sư Trịnh Đình Thảo và bác sĩ Nguyễn Văn Thinh, liên
**Chủ nghĩa tư bản phúc lợi** là chủ nghĩa tư bản bao gồm các chính sách phúc lợi xã hội. Chủ nghĩa tư bản phúc lợi cũng là thực tế của các doanh nghiệp cung
**Huân chương Chữ thập Tự do** (, viết tắt: _VR_, ) là một trong ba loại huân chương của nước Cộng hòa Phần Lan, được đặt ra lần đầu vào ngày 4 tháng 3 năm
**Chủ nghĩa tự do** là một trong những trường phái chính của lý thuyết quan hệ quốc tế. Nó bắt nguồn từ những tư tưởng tự do rộng rãi hơn, phát triển từ Thời kỳ
**Hội đồng tư vấn kinh tế cho Tổng thống Hoa Kỳ** là một nhóm các nhà kinh tế học làm nhiệm vụ tư vấn về các chính sách kinh tế cho Tổng thống Hoa Kỳ.
**Chủ nghĩa tư bản thân hữu**, (tiếng Anh: crony capitalism, tiếng Pháp: le capitalisme de connivence), còn gọi là **tư bản thân tộc**, **tư bản lợi ích nhóm**, hay đôi khi là **doanh nghiệp sân
**Chủ nghĩa tự do bảo thủ** là một biến thể của chủ nghĩa tự do, kết hợp các giá trị và chính sách tự do với lập trường bảo thủ, hoặc đơn giản là đại
nhỏ|300x300px| Tu viện Thánh Wigbert là một [[tu viện theo dòng Thánh Benedict của tông Luther.]] **Dòng tu tôn giáo** (chữ Anh: _religious order_), hoặc gọi là **tu đạo hội**, **tu hội**, là một nhóm
Bài này cung cấp một bộ bảng chia động từ của tiếng Tây Ban Nha, bao gồm ví dụ của động từ thường và một số động từ bất quy tắc phổ biến nhất. Đối
**Kết cấu chuỗi động từ**, **kết cấu loạt động từ** (tiếng Anh: _serial verb construction_), còn gọi là sự **chồng động từ** (tiếng Anh: _verb stacking_), là một hiện tượng cú pháp học trong đó
**Động từ** hoặc **vị từ** là từ (thành phần câu) dùng để biểu thị hoạt động (_chạy_, _đi_, _đọc_) hoặc trạng thái (_tồn tại_, _ngồi_). Trong ngôn ngữ, động từ gồm hai loại là nội
**Chủ nghĩa tư bản giám sát** (thuật ngữ tiếng Anh: **Surveillance capitalism**) là một khái niệm kinh tế chính trị chỉ tới sự lưu trữ hàng loạt và hàng hóa hóa dữ liệu cá nhân
phải|nhỏ|373x373px|Một số quỹ đạo của một dao động tử điều hòa theo [[Các định luật về chuyển động của Newton|luật của Newton của cơ học cổ điển (A–B), và theo Schrödinger phương trình của cơ
**Chủ động, tích cực hội nhập Quốc tế** là chính sách ngoại giao của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Chính sách là chủ trương của Đại hội Đảng lần thứ XI.
thumb|Quốc huy Chính phủ Lâm thời Liên bang Dân chủ Nam Tư **Chính phủ Lâm thời Liên bang Dân chủ Nam Tư** (Serbia-Croatia: _Privremena vlada Demokratske Federativne Jugoslavije_/_Привремена влада Демократске Федеративне Југославије_) là chính phủ
**Chủ đầu tư bất động sản** hay còn có các tên gọi khác như **nhà đầu tư bất động sản** hoặc **chủ doanh nghiệp bất động sản** ở phạm vi nhỏ là những cá nhân
**Chử Toán Tử** (chữ Hán: 褚蒜子, 324 - 384), là hoàng hậu dưới thời Tấn Khang Đế, vị vua thứ tư của nhà Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Chử Toán
nhỏ|Bức khắc đá thư pháp 「禮運大同篇」của 張炳煌 tại Trụ sở chính quyền thành phố [[Đài Bắc]] nhỏ|340x340px|Thiên hạ vi công (thiên hạ là của chung) “天下為公” là một trong những lý luận chính trị chủ
**Chu Đống** (chữ Hán: 朱棟; 21 tháng 6 năm 1388 – 14 tháng 11 năm 1414), được biết đến với tước hiệu **Dĩnh Tĩnh vương** (郢靖王), là hoàng tử của Minh Thái Tổ Chu Nguyên
**Quảng Đông Tứ đại trạng sư** () là danh xưng trong giai thoại dân gian Trung Hoa dùng để chỉ 4 trạng sư nổi tiếng nhất tỉnh Quảng Đông vào cuối thời nhà Thanh, gồm
GIỚI THIỆU SÁCH lên đồng không phải là trạng thái bệnh lý, mà chỉ là trạng thái tâm sinh lý, là trạng thái biến đổi ý thức đặc biệt, ở đó các ông đồng, bà
**Động Từ Thức** còn gọi là **Động Bích Đào**, là một hệ thống hang động núi đá vôi với nhiều nhũ đá được gắn liền với truyền thuyết Từ Thức gặp tiên. Động nằm trên
nhỏ|phải|Đồng tự sinh (mẫu ~4 cm) nhỏ|phải **Đồng tự nhiên** hay **đồng tự sinh** là một trong những dạng không kết hợp của đồng kim loại. Nó xuất hiện trong tự nhiên ở dạng độc
**Hội đồng Tư vấn Bản xứ Bắc Kỳ** (tiếng Pháp: **_Chambre Consultative Indigène du Tonkin_**) là cơ quan đại diện của người Việt ở Bắc Kỳ vào đầu thế kỷ 20 dưới thời Pháp thuộc.
**Chủ nghĩa vô trị** hay **chủ nghĩa vô chính phủ** là một trường phái triết học và phong trào chính trị chủ trương hoài nghi bất cứ sự hợp thức hóa nào về chính quyền,
thumb|_Eduskunta_, quốc hội của [[Đại công quốc Phần Lan (lúc đó là một phần của Nga), có quyền bầu cử phổ thông vào năm 1906. Một số tiểu bang và vùng lãnh thổ có thể
**Chủ nghĩa vị lợi**, hay **chủ nghĩa công lợi** còn gọi là **thuyết duy lợi** hay **thuyết công lợi** (tiếng Anh: _Utilitarianism_) là một triết lý đạo đức, một trường phái triết học xã hội
Tượng Pháp Vũ tại [[chùa Keo (Hà Nội)]] Tượng Pháp Vân, ở [[Chùa Dâu, Bắc Ninh]] **Tứ Pháp** (Chữ Hán: 四法) là các vị Phật - Bồ Tát có nguồn gốc từ các nữ thần
**Nam Tư** (_Jugoslavija_ trong tiếng Serbia-Croatia (ký tự Latinh) và tiếng Slovenia; _Југославија_ trong tiếng Serbia-Croatia (ký tự Kirin) và tiếng Macedonia) miêu tả ba thực thể chính trị tồn tại nối tiếp nhau trên
**_Nền đạo đức Tin Lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản_** (_Die protestantische Ethik und der 'Geist' des Kapitalismus_) là tác phẩm nổi tiếng nhất và hay được bàn đến của nhà kinh
thumb|220x124px | right | Bốn pha của chu kỳ kinh doanh **Chu kỳ kinh tế**, còn gọi là **chu kỳ kinh doanh** (Tiếng Anh: _Business cycle_), là sự biến động của GDP thực tế theo
phải|Áp phích [[Industrial Workers of the World của những người theo chủ nghĩa chống tư bản dán năm 1911. Hình nói về sự mâu thuẫn giai cấp giữa tầng lớp trên và tầng lớp dưới
nhỏ|Phong trào vận động dân chủ 1936 – 1939 tại Huế **Phong trào Dân chủ ở Đông Dương** là phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc do Đảng Cộng sản Đông Dương phát động.
**Tào Động tông** (zh. 曹洞宗 _cáo-dòng-zōng_, ja. _sōtō-shū_) là một trong năm Thiền phái của Thiền tông Trung Quốc, được sáng lập vào cuối nhà Đường bởi hai thầy trò Thiền sư Động Sơn Lương
**Nguyên tắc tập trung dân chủ** là một trong những nguyên tắc cơ bản được trình bày trong điều lệ chính thức của các đảng phái cộng sản theo chủ nghĩa Marx-Lenin. Lenin, người đầu