✨Chính trị
thumb | 220x124px | right| [[Bernie Sanders, thượng nghị sĩ, thành viên đảng Dân chủ Mỹ phát biểu trước hàng nghìn người dân vào năm 2015]]
Chính trị (Tiếng Anh: politics) là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, cũng như các dân tộc và các quốc gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực Nhà nước; là sự tham gia của nhân dân vào công việc của Nhà nước và xã hội, là hoạt động chính trị thực tiễn của giai cấp, các đảng phái chính trị, các nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện đường lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích.
Từ khi xuất hiện, chính trị ảnh hưởng tới quá trình tồn tại và phát triển của mỗi cộng đồng, mỗi quốc gia, dân tộc và toàn nhân loại. Trước khi chính trị học ra đời với tư cách là một khoa học (political science) nghiên cứu chính trị như một chỉnh thể, có đối tượng, phương pháp, khái niệm, phạm trù..., đã có các quan niệm, quan điểm, thậm chí tư tưởng, học thuyết của các học giả khác nhau bàn về các khía cạnh của chính trị.
Khái niệm
Các quan niệm trước Chủ nghĩa Mác-Lênin
- Ở phương Tây thời kỳ cổ đại, nổi lên các triết gia, chính trị gia lỗi lạc về chính trị:
Herodotus: Được mệnh danh là người "cha của chính trị học". Từ chỗ nghiên cứu và phân tích sự khác biệt giữa các hình thức chính thể: Quân chủ, Quý tộc và Dân chủ, ông khẳng định chính trị tốt nhất là thể chế hỗn hợp của các chính thể này.
Platon: Chính trị là "nghệ thuật cung đình" liên kết trực tiếp của người anh hùng và sự thông minh. Sự liên kết đó được thực hiện bằng sự thống nhất tư tưởng và tinh thần hữu ái. Chính trị là nghệ thuật cai trị. Cai trị bằng sức mạnh là độc tài, cai trị bằng nghệ thuật mới là đích thực.
Aristotle: Chính trị là sản phẩm của sự phát triển tự nhiên- là hình thức giao tiếp cao nhất của con người; con người là động vật chính trị; quyền lực chính trị có thể được phân chia thành lập pháp, hành pháp và tư pháp.
- Ở phương Đông cổ đại, nhất là ở Trung Quốc thời kỳ "bách gia chư tử" - trăm hoa đua nở - trăm nhà đua tiếng cũng xuất hiện những tư tưởng chính trị kiệt xuất. Nổi bật nhất là các quan niệm của Khổng tử, Hàn Phi tử, Lăo tử...
- Nghệ thuật của phép cai trị
- Những công việc của chung
- Sự thỏa hiệp và đồng thuận
- Quyền lực và cách phân phối tài nguyên hay lợi ích Nếu quan niệm rằng chính trị chỉ là những hoạt động xoay quanh vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước thì, theo lý luận của chủ nghĩa Marx, trong xã hội cộng sản tương lai sẽ không có chính trị bởi vì lúc đó nhà nước đã tiêu vong. Nói cách khác, chính trị sẽ dần dần trở nên thừa thãi và mất hẳn trong xã hội lý tưởng của nhân loại – xã hội cộng sản.
Chính trị theo nghĩa rộng hơn là hoạt động của con người nhằm làm ra, gìn giữ và điều chỉnh những luật lệ chung mà những luật lệ này tác động trực tiếp lên cuộc sống của những người góp phần làm ra, gìn giữ và điều chỉnh những luật lệ chung đó. Với cách hiểu như thế này thì dù trong xã hội cộng sản, chính trị vẫn còn tồn tại và vẫn giữ vai trò hết sức quan trọng đối với từng con người cũng như toàn xã hội. Trong bất kỳ xã hội nào thì cũng cần những luật lệ chung để hoạt động nhịp nhàng và khoa học, tránh tình trạng vô tình hay cố ý xâm phạm quyền lợi, lợi ích, tài sản, sức khỏe hay thậm chí tính mạng của người khác hay của cộng đồng. Một ví dụ đơn giản, xã hội dù có phát triển đến đâu thì cũng cần có luật giao thông để con người có thể lưu thông một cách trật tự và hiệu quả. Hay, con người không thể sống trong một xã hội mà tình trạng an ninh không đảm bảo (cướp bóc, khủng bố chẳng hạn) do thiếu luật lệ. Mặc dù phần lớn xã hội hiện nay trên thế giới không tránh khỏi các hiện tượng cướp bóc và khủng bố nhưng phải thừa nhận rằng pháp luật đã góp phần ngăn chặn đáng kể những hành vi bất lương đó.
Nguồn gốc và bản chất
Nguồn gốc kinh tế chính trị
Xét về sự xuất hiện của chính trị trong lịch sử nhân loại: Chính trị ra đời gắn liền với sự xuất hiện của giai cấp và nhà nước. Sự xuất hiện đó lại liên quan chặt chẽ đến vấn đề tư hữu tư liệu sản xuất - tư hữu những của cải dư thừa của xã hội- cũng tức là liên quan đến hoạt động kinh tế. Để bảo vệ cho sự tư hữu về tư liệu sản xuất đó, những tầng lớp "trên" của xã hội đã tổ chức ra nhà nước nhằm mục đích cưỡng chế các giai tầng xã hội khác. Như vậy chính trị xuất hiện trong lịch sử xuất phát từ kinh tế.
Xét trên góc độ lợi ích: Chủ nghĩa Marx-Lenin khẳng định chính trị chính là lợi ích, là quan hệ giữa các giai cấp trong việc phân chia lợi ích. Như vậy chính trị chính là sự biểu hiện tập trung của kinh tế.
Đảng phái, Nhà nướcː Bản chất chính trị của giai cấp thể hiện ở sự tổ chức thành Đảng phái, thành Nhà nước để giai cấp thống trị đạt được mục đích trấn áp giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội vì lợi ích trước hết và trên hết của giai cấp mình. Thông qua hoạt động của các Đảng phái là đội tiên phong của chính mình, đồng thời thông qua hoạt động của Nhà nước, giai cấp thống trị gián tiếp can thiệp vào các hoạt động tổ chức sản xuất và đời sống xã hội. Các hình thức ban đầu của con người về tổ chức xã hội - các nhóm người và bộ lạc còn thiếu các cấu trúc chính trị tập trung. Chúng được gọi là xã hội không nhà nước.
Có một số lý thuyết và giả thuyết khác nhau liên quan đến sự hình thành nhà nước sớm tìm cách khái quát hóa để giải thích tại sao nhà nước phát triển ở một số nơi mà không phải là những nơi khác. Các học giả khác tin rằng việc khái quát hóa là không có giá trị và mỗi trường hợp hình thành nhà nước sớm nên được xử lý riêng biệt.
Các lý thuyết tự nguyện cho rằng các nhóm người khác nhau đã cùng nhau hình thành các nhà nước do kết quả của một số lợi ích hợp lý được chia sẻ chung. Các lý thuyết chủ yếu tập trung vào sự phát triển của nông nghiệp, và áp lực dân số và tổ chức theo sau và dẫn đến sự hình thành nhà nước. Một trong những lý thuyết nổi bật nhất về sự hình thành nhà nước sơ khai và sơ cấp là giả thuyết thủy lợi, cho rằng nhà nước là kết quả của nhu cầu xây dựng và duy trì các dự án thủy lợi quy mô lớn.
Các lý thuyết xung đột về sự hình thành nhà nước coi xung đột và sự thống trị của một số dân số đối với dân số khác là chìa khóa cho sự hình thành các quốc gia.
Hệ tư tưởng chính trị có vai trò vô cùng quan trọng, thể hiện ở những điểm sauː Đó là kim chỉ nam soi đường cho quá trình đấu tranh của một giai cấp. Chỉ có hệ tư tưởng chính trị mới chứa đựng những mục tiêu và phương pháp để một giai cấp tiến lên giành chính quyền. Hệ tư tưởng chính trị xác định mối quan hệ giữa giai cấp này với giai cấp khác. Hệ tư tưởng chính trị mô tả chế độ chính trị, xác định hình thức và bản chất Nhà nước, các cơ chế phân chia quyền lực chính trị. Hệ tư tưởng chính trị xác định mục tiêu, nội dung và phương thức lãnh đạo, quản lý xã hội. Niềm tin chính trị của ông gắn chặt với luân thường đạo lý và đạo đức cá nhân. Ông cho rằng chỉ những người quân tử liêm khiết và tuân theo đạo của người quân tử thì mới được cầm quyền, và những tư cách của những nhân vật đó phải kiên định với địa vị trong xã hội. Ông ta cũng nói rằng "Triều đại tốt cốt ở vua làm tròn bổn phận của vua, bề tôi làm tròn bổn phận của bề tôi, cha làm tròn bổn phận của cha, và con làm tròn bổn phận của con."
Platoː Triết gia Hy Lạp cổ đại Plato (428– 328 TCN) nói trong sách Nền Cộng hòa (The Republic) rằng tất cả những chế độ chính trị theo truyền thống như (dân chủ, quân chủ, chính thể đầu sỏ,chính thể hào hiệp - democracy, monarchy, oligarchy và timarchy) vốn đã đồi bại, tham nhũng và nhà nước nên được điều hành bởi tầng lớp những người cầm quyền cũng là triết gia được giáo dục tốt. Họ được đào tạo từ lúc chào đời và được chọn dựa trên năng lực: "những người có kỹ năng đặc biệt về quan sát tổng quan xã hội."
Aristotleː Trong cuốn Chính trị của mình, triết gia Hy Lạp cổ đại Aristotle (384–322 TCN) quả quyết rằng về bản chất, con người là một động vật chính trị. Ông ta cho rằng luân thường và chính trị có liên kết chặt chẽ với nhau, và một đời sống thật sự đạo đức chỉ có thể có ở những người tham gia vào chính trị. Giống như Plato, Aristotle thấy rằng có nhiều hình thức nhà nước khác nhau, và ông cho rằng hình thức "đúng" của nhà nước có thể biến thành một hình thức nhà nước "lệch lạc", nơi mà thể chế bị mục nát. Theo ông, chế độ quân chủ, có một người cai trị, sẽ biến thành chuyên chế; chế độ quý tộc, với một nhóm nhỏ người cai trị, sẽ biến thành chính thể đầu sỏ; và xã hội có tổ chức (polity) do nhiều người dân cùng cai trị thì sẽ biến thành chế độ dân chủ. Theo nghĩa này, Aristotle không dùng từ "democracy" như nghĩa hiện nay là nó mang nghĩa rộng, nhưng có nghĩa đen là do demos, hay thường dân cai trị. Thuật ngữ Machiavellian (cũng có nghĩa là xảo quyệt) ra đời, đề cập đến một người thiếu đạo đức dùng các cách mánh khóe để cố thủ quyền hành. Học thuyết của ông đã được các lãnh đạo học tập và thực hành kể cả những lãnh đạo chuyên chế toàn trị như Benito Mussolini và Adolf Hitler, những người đã biện hộ cho việc hành động tàn bạo của mình là cho mục đích an toàn quốc gia. Tuy nhiên, nhiều học giả đã nghi vấn quan điểm này của chủ thuyết Machiavelli, cho rằng "Machiavelli không sáng tạo ra chủ nghĩa Machiavelli", và chưa từng là một 'Machiavellian' quỷ quyệt như ông đã bị gán cho." Thay vào đó, Machiavelli xem trạng thái ổn định của quốc gia là mục tiêu quan trọng hàng đầu, và tranh luận rằng theo truyền thống phẩm chất tốt được xem là khát vọng mang tính đạo đức, như tính độ lượng, đã không được ưa thích đối với người lãnh đạo và có thể dẫn đến việc mất quyền lực chính trị.trái|John Stuart MillJohn Stuart Millː Vào thế kỷ XIX, John Stuart Mill là người đi tiên phong trong việc dùng khái niệm tự do trong chính trị. Ông ta đã thấy được rằng dân chủ sẽ là sự phát triển chính trị chủ chốt trong thời đại ông ta và, trong cuốn Bàn về tự do (On Liberty) của mình, ông đã cổ vũ cho việc bảo vệ tốt hơn các quyền cá nhân và chống lại ảnh hưởng của nhà nước và sự cầm quyền của đa số. Ông ta cho rằng tự do là quyền quan trọng nhất của loài người. Một nhà bình luận cho rằng cuốn Bàn về tự do như là một lời bảo vệ hùng hồn và mạnh mẽ nhất cho chủ nghĩa tự do chúng ta có."''
Karl Marx là một trong số những nhà tư tưởng chính trị có ảnh hưởng trong lịch sử. Học thuyết của ông chỉ trích chủ nghĩa tư bản và ông biện luận rằng trong tương lai sẽ có "sự suy tàn không tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản vì các nguyên nhân kinh tế, và được thay thế bởi chủ nghĩa xã hội." Ông ta định nghĩa lịch sử có liên quan đến đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản, hay giai cấp sở hữu tư liệu sản xuất, và giai cấp vô sản, hay giai cấp lao động. Cuộc đấu tranh được sự công nghiệp hóa tăng cường. Nhiều phong trào chính trị sau đó dựa trên tư tưởng của Marx, cho ra các phiên bản rất khác nhau của chủ nghĩa cộng sản; bao gồm Chủ nghĩa Marx-Lenin, Chủ nghĩa Mao, và Chủ nghĩa Marx tự do. Có thể nói rằng người đã người thể hiện học thuyết chủ nghĩa Marx có ảnh hưởng nhất là Lenin, người sáng lập ra Liên Xô. Ông đã sáng tạo học thuyết cách mạng dựa trên nền tảng tư tưởng Marx. Tuy nhiên, những nhà tư tưởng theo Chủ nghĩa Marx tự do đã thách thức sự diễn dịch chủ nghĩa Marx của Lenin; như trường hợp Cornelius Castoriadis, đã miêu tả nhà nước Liên Xô là một hình thức của "chủ nghĩa tư bản quan liêu" hơn là nhà nước cộng sản thực sự.
Thể chế chính trị
Thể chế chính trị (Political Institute) là những quy định, quy chế, chuẩn mực, quy phạm, nguyên tắc, luật lệ...nhằm điều chỉnh và xác lập các quan hệ chính trị. Mặt khác là những dạng thức cấu trúc tổ chức, các bộ phận chức năng cấu thành của một chủ thể chính trị hay hệ thống chính trị. Thể chế chính trị là hình thức biểu hiện của hệ tư tưởng chính trị, là "con đẻ" của hệ tư tưởng chính trị. Hệ thống chính trị là một bộ phận cấu thành của thể chế chính trị. Thể chế chính trị tồn tại dưới hai dạng thức:
Đảng chính trị là bộ phận tích cực nhất và có tổ chức của một giai cấp, làm công cụ đấu tranh cho lợi ích của giai cấp mình. Các Đảng chính trị xuất hiện ngay từ những giai đoạn phát triển đầu tiên của xã hội có giai cấp, gắn liền với những sự khác nhau về lợi ích của các giai cấp và của các tập đoàn hợp thành giai cấp. Nhưng lịch sử thực sự của các Đảng chính trị chỉ bắt đầu từ thời kì Đại cách mạng tư sản Pháp (cuối thế kỷ XVIII).
Nhà nước có vai trò vô cùng quan trọng, là trụ cột của hệ thống chính trị. Thông qua các cơ chế quyền lực, Nhà nước quản lý toàn bộ các mặt của đời sống xã hội: Quyền lập pháp giúp Nhà nước ban hành pháp luật, quyền hành pháp giúp Nhà nước tổ chức và thực thi pháp luật, quản lý nền sản xuất, quản lý đời sống xã hội, quyền tư pháp giúp Nhà nước kiểm sát và xét xử các hành vi vi phạm pháp luật, chống lại chế độ kinh tế, chính trị của quốc gia, dân tộc,... hoạt động của Nhà nước chính là trung tâm của sự vận hành hệ thống chính trị.
Chính trị học cũng nghiên cứu quá trình hoạt động chính trị nhằm giành chính quyền, duy trì và sử dụng quyền lực chính trị. Chú ý nghiên cứu làm rõ các vấn đề: mục tiêu chính trị trước mắt và mục tiêu lâu dài mang tính hiện thực; những biện pháp, phương tiện, thủ thuật, hình thức tổ chức có hiệu quả để đạt các mục tiêu đề ra; sự lựa chọn và sắp xếp cán bộ. Chính trị học cũng nghiên cứu các mối quan hệ về lí luận chính trị của các chế độ xã hội.
Kinh tế chính trị học
Kinh tế chính trị học là một môn khoa học xã hội nằm trong khoa học kinh tế, nghiên cứu về kinh tế để rút ra các kết luận về kinh tế và từ đó rút ra các kết luận về chính trị. Theo Enghen: "Kinh tế chính trị học theo nghĩa rộng nhất là khoa học về những quy luật chi phối sự sản xuất và sự trao đổi những tư liệu sinh hoạt vật chất trong xã hội loài người..." Theo nghĩa hẹp, kinh tế chính trị học nghiên cứu một phương thức sản xuất cụ thể và tìm ra quy luật vận động của riêng nó. Kinh tế chính trị học là môn khoa học xã hội nghiên cứu những cơ sở kinh tế chung của đời sống xã hội tức là các quan hệ kinh tế trong những giai đoạn nhất định của xã hội loài người.
Xã hội chính trị
Địa chính trị
Địa chính trị (tiếng Anh: Geo-politics) là lĩnh vực nghiên cứu về tác động của các yếu tố địa lý tới hành vi của các quốc gia và quan hệ quốc tế. Cụ thể, địa chính trị xem xét việc các yếu tố như vị trí địa lý, khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, dân số, hay địa hình tác động như thế nào tới chính sách đối ngoại của một quốc gia và vị thế của quốc gia đó trong hệ thống quốc tế.
Tham nhũng chính trị
Tham nhũng chính trị là việc sử dụng quyền lực của các quan chức chính phủ vì lợi ích cá nhân bất hợp pháp. Hành vi bất hợp pháp của một chủ văn phòng chỉ là tham nhũng chính trị chỉ khi hành động đó liên quan trực tiếp đến các nghĩa vụ chính thức của họ, được thực hiện theo luật màu sắc hoặc liên quan đến việc buôn bán ảnh hưởng
Các hình thức tham nhũng khác nhau, bao gồm hối lộ, tống tiền, chủ nghĩa địa phương, bảo trợ, ảnh hưởng đến việc bán rong và biển thủ. Tham nhũng có thể tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hình sự như buôn lậu ma túy, rửa tiền và buôn bán người, mặc dù không hạn chế trong các hoạt động này. Sử dụng sai quyền lực của chính phủ cho các mục đích khác, như đàn áp các đối thủ chính trị và tàn bạo của cảnh sát nói chung.
Các hoạt động tạo thành sự tham nhũng bất hợp pháp khác nhau tùy thuộc vào quốc gia hoặc thẩm quyền. Ví dụ, một số thực tiễn về chính sách tài chính hợp pháp tại một nơi có thể là bất hợp pháp ở một nơi khác. Trong một số trường hợp, các quan chức chính phủ có quyền hạn rộng hoặc không rõ ràng, làm cho việc phân biệt giữa các hành động pháp lý và bất hợp pháp rất khó khăn. Trên toàn cầu, hối lộ ước tính khoảng hơn 1 nghìn tỷ đô la Mỹ mỗi năm. Một quốc gia tham nhũng chính trị tự do được biết đến như một nhà kleptocracy, nghĩa đen là "cai trị bởi kẻ trộm". Một số hình thức tham nhũng - hiện nay được gọi là "tham nhũng về thể chế" - được phân biệt với hối lộ và các loại lợi ích cá nhân rõ rệt khác. Một vấn đề tương tự về tham nhũng phát sinh trong bất kỳ tổ chức nào phụ thuộc vào sự hỗ trợ tài chính từ những người có quyền lợi có thể mâu thuẫn với mục đích chính của tổ chức.
Thủ lĩnh chính trị
Thủ lĩnh chính trị là một cá nhân kiệt xuất trong lĩnh vực chính trị, xuất hiện và trưởng thành từ phong trào cách mạng của quần chúng ở những điều kiện lịch sử nhất định, có sự giác ngộ về lợi ích, mục tiêu và lý tưởng của giai cấp, có tri thức, có năng lực tổ chức và tập hợp quần chúng để giải quyết những nhiệm vụ chính trị do lịch sử đặt ra. Một số thủ lĩnh chính trị nổi tiếng nhưː Chủ tịch Hồ Chí Minh, Lãnh tụ Cuba Fidel Castro, Chủ tịch Mao Trạch Đông
- Về trình độ hiểu biết: Người thủ lĩnh chính trị nhất thiết phải là người thông minh, hiểu biết sâu rộng các lĩnh vực; có tư duy khoa học; nắm vững được quy luật phát triển theo hướng vận động của quá trình chính trị; có khả năng dự đoán được tình hình; làm chủ được khoa học và công nghệ lãnh đạo, quản lý.
Quyền lực chính trị là quyền sử dụng sức mạnh của một hay liên minh giai cấp, tập đoàn xã hội để đạt mục đích thống trị xã hội, thoả mãn lợi ích giai cấp mình. Đặc điểm của quyền lực chính trị là quyền lực xã hội nhằm để giải quyết lợi ích giai cấp, lợi ích quốc gia, nhân loại; là khả năng áp đặt và thực thi các giải pháp phân bổ giá trị có lợi cho một giai cấp; là sức mạnh bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp giai cấp khác.
Mục tiêu cuối cùng của đấu tranh chính trị là thay đổi quan điểm và hành động của đối phương nhằm ủng hộ lợi ích của một quốc gia mà không sử dụng quyền lực quân sự. Kiểu thuyết phục hoặc ép buộc có tổ chức này cũng có mục đích thực tế để cứu mạng sống bằng cách tránh sử dụng bạo lực nhằm mục đích chính trị hơn nữa. Do đó, chiến tranh chính trị cũng liên quan đến "nghệ thuật làm bạn bè nồng nhiệt và làm phiền kẻ thù, giúp đỡ vì một người gây ra và từ bỏ kẻ thù"
Phong trào chính trị
Phong trào chính trị là một nhóm xã hội hoạt động, hành động cùng nhau để đạt được mục tiêu chính trị, trên phạm vi địa phương, khu vực, quốc gia hoặc quốc tế. Các phong trào chính trị phát triển, điều phối, ban hành, sửa đổi, diễn giải và sản xuất các tài liệu nhằm mục đích giải quyết các mục tiêu nhất định nào đó. Một phong trào xã hội trong lĩnh vực chính trị có thể được tổ chức xung quanh một vấn đề hoặc tập hợp các vấn đề hoặc xung quanh một tập hợp các mối quan tâm chung của một nhóm xã hội. Trong một đảng chính trị, một tổ chức chính trị cố gắng gây ảnh hưởng hoặc kiểm soát chính sách của chính phủ, thường bằng cách chỉ định ứng cử viên của họ và ứng cử viên vào các vị trí chính trị và chính phủ. Ngoài ra, các bên tham gia vào các chiến dịch bầu cử và tiếp cận giáo dục, kháng nghị những hành động nhằm thuyết phục công dân hoặc các chính phủ phải có hành động về các vấn đề và mối quan tâm đó là trọng tâm của phong trào.
Kinh tế chính trị
Kinh tế chính trị là các quá trình và hiện tượng trong đời sống kinh tế, chính trị và xã hội, bản chất, quy luật chi phối sự vận động của các quá trình, hiện tượng kinh tế khách quan vận dụng vào các hoạt động kinh tế để đạt hiệu quả kinh tế cao trên cơ sở phân tích quá trình, hiện tượng,dự báo. Kinh tế chính trị không dựa vào đơn thuần tiến trình lịch sử, mô tả đơn thuần các sự kiện lịch sử mà căn cứ vào tiến trình lịch sử phát triển của các quan hệ sản xuất, dùng phương pháp tư duy và lý luận lôgic để vạch ra những quy luật kinh tế chi phối sự vận động của mỗi phương thức sản xuất. Kinh tế chính trị không chỉ dừng lại ở tiếp cận các sự kiện mà phải thâm nhập vào bản thân đời sống kinh tế xã hội, chỉ ra các phương pháp vận dụng lý thuyết kinh tế vào đời sống thực tế.
Văn hóa chính trị là một lĩnh vực, một biểu hiện đặc biệt của văn hóa của loài người trong xã hội có giai cấp, văn hóa chính trị được hiểu là trình độ phát triển của con người thể hiện ở trình độ hiểu biết về chính trị, trình độ tổ chức hệ thống tổ chức quyền lực theo một chuẩn giá trị xã hội nhất định nhằm điều hòa các quan hệ lợi ích giữa các giai cấp và bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền, phù hợp với xu thế phát triển và tiến bộ xã hội.
Học giả chính trị là người chuyên nghiên cứu, tìm hiểu sâu, chi tiết về lĩnh vực chính trị. Đó là những người tự học, thường xuyên, không mệt mỏi và có phương pháp tiếp cận tốt đối với lĩnh vực chính trị. Các học giả chính trị thường có ảnh hưởng, đóng góp, cống hiến quan trọng trong lĩnh vực chính trị thường có các giải thưởng cao quý hoặc được vinh danh ở cấp độ quốc gia hoặc quốc tế. Các công trình nghiên cứu của họ có tầm ảnh hưởng quan trọng trong lĩnh vực giáo dục cao cấp, ảnh hưởng đến một số trường đại học. Ngoài ra các học giả chính trị cũng là một giáo sư đại học, nhà văn chính trị, nhà phê bình chính trị, phóng viên chính trị hoặc giữ các chức vụ quan trọng trong các trường đào tạo về chính trị.