✨Chính trị Philippines
Chính trị Philippines được tổ chức trong khuôn khổ của một chế độ dân chủ, tam quyền phân lập. Tổng thống Philippines là nguyên thủ quốc gia kiêm người đứng đầu chính phủ, thực hiện quyền hành pháp, do nhân dân bầu ra với nhiệm kỳ sáu năm. Quốc hội Philippines gồm Hạ viện và Thượng viện, thực hiện quyền lập pháp. Tòa án tối cao Philippines là cơ quan xét xử cao nhất, có thẩm quyền giám sát hiến pháp đối với quyết định của các cơ quan nhà nước.
Nền pháp chế Philippines chịu ảnh hưởng từ thời kỳ thuộc Tây Ban Nha và Hoa Kỳ. Chính quyền thực dân Tây Ban Nha dùng người bản xứ để cai trị Philippines, tạo thành một chế độ phân hóa giai cấp. Sau Chiến tranh Tây Ban Nha–Mỹ, Hoa Kỳ tiếp quản Philippines và thành lập một chế độ chính trị phỏng theo chế độ chính trị Mỹ. Sau khi trở thành một nước độc lập vào năm 1946, chính trị Philippines chịu sự chi phối của hai đảng cho đến khi chế độ thiết quân luật được thành lập. Từ khi dân chủ được khôi phục vào năm 1986, đa đảng tham gia chính trị. Philippines đã trải qua nhiều cuộc nổi loạn của những phong trào tả khuynh cùng với vấn đề bất ổn tại những khu vực Hồi giáo.
Chính trị Philippines chịu sự chi phối của một tầng lớp thế phiệt có thế lực lớn ở cấp quốc gia và địa phương. Các đảng chính trị không có một cương lĩnh rõ ràng mà thông thường theo sự lãnh đạo của những cá nhân, gia tộc. Tham nhũng và gian lận bầu cử là những vấn đề thường trực của Philippines. Công giáo, Quân đội Philippines và Hoa Kỳ đã tác động mạnh đến chính trị Philippines. Tuy nhiên, dư luận ủng hộ rộng rãi một chế độ dân chủ và tỷ lệ đi bỏ phiếu thường cao.
Hành pháp
Tổng thống Philippines thực hiện quyền hành pháp. Tổng thống là nguyên thủ quốc gia kiêm người đứng đầu chính phủ, do nhân dân bầu ra với nhiệm kỳ sáu năm. Tổng thống không được tái cử quá một nhiệm kỳ. Người ứng cử tổng thống phải có quốc tịch bẩm sinh, đủ 40 tuổi trở lên và đã thường trú tại Philippines được ít nhất mười năm trước khi cuộc bầu cử được tổ chức. Tổng thống ban hành sắc lệnh và những văn bản khác để thực hiện quyền hạn của mình và có quyền phủ quyết luật của Quốc hội. nhỏ|Cung Malacañang là nơi ở và làm việc của tổng thống Philippines. Phó tổng thống Philippines được bầu riêng biệt với tổng thống, có nhiệm kỳ sáu năm và không được tái cử quá hai nhiệm kỳ liên tiếp. Trong trường hợp tổng thống qua đời, từ chức hoặc không làm việc được trong thời gian dài thì phó tổng thống kế nhiệm tổng thống. Trong trường hợp tổng thống tạm thời không làm việc được thì phó tổng thống giữ quyền tổng thống. Trong trường hợp khuyết cả tổng thống và phó tổng thống thì chủ tịch Thượng viện giữ quyền tổng thống, khuyết chủ tịch Thượng viện thì chủ tịch Hạ viện giữ quyền. Phó tổng thống có thể được cử giữ chức vụ trong Nội các.
Nội các Philippines gồm bộ trưởng các bộ và những thủ trưởng cơ quan khác do tổng thống bổ nhiệm. Thành viên Nội các không được kiêm nhiệm nghị sĩ Quốc hội và tổng thống không được bố trí người thân đảm nhiệm những chức danh nhất định. Tổng thống có quyền bãi bỏ văn bản của Nội các.
Tổng thống Philippines thống lĩnh Quân đội Philippines, Tổng thống có quyền ra lệnh thiết quân luật và đình chỉ quyền khiếu nại giam người trái pháp luật nhưng lệnh thiết quân luật thuộc thẩm quyền xem xét của Tòa án tối cao và hết hiệu lực sau 60 ngày trừ phi được Quốc hội gia hạn. Tổng thống đề nghị dự toán ngân sách nhà nước trước Quốc hội.
Lập pháp
Quốc hội Philippines gồm Hạ viện và Thượng viện. Thượng viện gồm 24 thượng nghị sĩ được bầu ra trong phạm vi toàn quốc với nhiệm kỳ sáu năm. Cứ ba năm là bầu lại một nửa số thượng nghị sĩ. Thượng nghị sĩ không được tái cử quá hai nhiệm kỳ liên tiếp. Chủ tịch Thượng viện do Thượng viện bầu ra trong số thượng nghị sĩ.
Hạ viện gồm 311 hạ nghị sĩ. 20% số hạ nghị sĩ được bầu ra theo thể thức đại diện tỷ lệ liên danh đảng, 80% được bầu ra từ các đơn vị bầu cử. Các đơn vị bầu cử bình đẳng về dân số và mỗi thành phố có dân số trên 250.000 người được bảo đảm ít nhất một hạ nghị sĩ. Nhiệm kỳ của hạ nghị sĩ là ba năm. Hạ nghị sĩ không được tái cử quá ba nhiệm kỳ. Chủ tịch Hạ viện do Hạ viện bầu ra trong số hạ nghị sĩ. liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:2011_Philippine_State_of_the_Nation_Address.jpg|trái|nhỏ|Tổng thống [[Benigno Aquino III trình bày Thông điệp Quốc gia vào năm 2011.]] Luật của Quốc hội được tổng thống ban hành sau khi được Hạ viện và Thượng viện thông qua. Trường hợp tổng thống phủ quyết luật thì luật được công bố nếu hai phần ba tổng số hạ nghị sĩ và thượng nghị sĩ biểu quyết tán thành. Luật, nghị quyết của Quốc hội phải được quá nửa số hạ nghị sĩ và thượng nghị sĩ biểu quyết tán thành. Thượng viện có độc quyền phê chuẩn điều ước, dự toán ngân sách nhà nước phải trình Hạ viện xem xét trước. Hạ viện quyết định đàn hặc quan chức, Thượng viện quyết định luận tội quan chức.
Tư pháp
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Supreme_Court_in_Manila.JPG|phải|nhỏ|Tòa án tối cao Philippines Tòa án tối cao Philippines là cơ quan xét xử cao nhất trong hệ thống tòa án. Tòa án tối cao thực hiện giám sát hiến pháp đối với luật và có quyền hủy bỏ văn bản của cơ quan nhà nước. Án lệ của Tòa án tối cao có hiệu lực như luật và không thể bị cơ quan nhà nước khác xem xét lại.
Tổ chức của tòa án cấp dưới do luật định theo nguyên tắc ba cấp xét xử. Tòa án phúc thẩm là cơ quan xét xử phúc thẩm của Philippines. Tòa án sơ thẩm khu vực có thẩm quyền xét xử sơ thẩm đối với hầu hết các vụ án hình sự, được tổ chức tại các vùng của Philippines.
Tòa chuyên trách đã được thành lập tại các cấp xét xử.
Pháp chế
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Gold_In-Laid_Chest_(Repository_of_1935_Constitution).jpg|nhỏ|Hiến pháp Philippines năm 1935, là cơ sở của hiến pháp hiện hành. Nền pháp chế Philippines pha trộn dân luật Tây Ban Nha và thông luật Hoa Kỳ. Luật Hồi giáo được áp dụng cho những tín đồ Hồi giáo trong một vài lĩnh vực.
Hiến pháp Philippines là luật cơ bản của Philippines. Luật của Quốc hội phải phù hợp với hiến pháp. Từ năm 1898, Philippines đã trải qua bốn bản hiến pháp (1898, 1935, 1973, 1987). Thời thuộc Tây Ban Nha, Hiến pháp Tây Ban Nha năm 1812 được áp dụng trong khoảng thời gian ngắn. Trong Cách mạng Philippines, vô số bản hiến pháp được ban hành mà đáng chú ý nhất là Hiến pháp Malolos. Hiến pháp năm 1935 quy định một chế độ dân chủ tổng thống. Hiến pháp năm 1973 thành lập một chế độ bán đại nghị tập quyền dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Marcos.
Sau Cách mạng Quyền lực Nhân dân năm 1986, Tổng thống Aquino ra sắc lệnh ban hành một bản hiến pháp lâm thời và thành lập Ủy ban Lập hiến với nhiệm vụ soạn thảo hiến pháp mới. Dự thảo hiến pháp được hoàn thành vào ngày 15 tháng 10 năm 1986 và được phê chuẩn vào ngày 2 tháng 2 năm 1987 trong một cuộc trưng cầu ý dân. Hiến pháp năm 1987 kế thừa hiến pháp năm 1935, Bộ luật dân sự quy định án lệ là một phần của hệ thống pháp luật, được áp dụng trong xét xử. Hiến pháp quy định Tòa án tối cao có thẩm quyền giám sát hiến pháp, có nhiệm vụ "xác định xem cơ quan nhà nước có lạm quyền nghiêm trọng hay không vì đã vượt hoặc thiếu thẩm quyền".
Tổng thống ban hành sắc lệnh, lệnh và những văn bản khác để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Luật quốc tế có hiệu lực tại Philippines một khi đã được pháp luật trong nước hoặc hiến pháp thừa nhận. Cơ quan lập pháp địa phương ban hành quy định địa phương theo nguyên tắc tự trị địa phương của Bộ luật chính quyền địa phương.
Bầu cử
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:People_line_up_to_vote_at_a_precinct_in_San_Joaquin,_Mabalacat_City,_Pampanga,_Philippines.jpg|nhỏ|Cử tri xếp hàng đi bỏ phiếu tại [[Mabalacat vào năm 2013]] Từ năm 1935, bầu cử tại Philippines do Ủy ban Bầu cử tổ chức. Hầu hết các đại biểu dân cử đều có nhiệm kỳ ba năm, ngoại trừ tổng thống, phó tổng thống và thượng nghị sĩ có nhiệm kỳ sáu năm. liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Valencia_City_local_elections,_May_2013_-_3.jpg|trái|nhỏ|Cán bộ bầu cử tại Valencia kiểm tra danh sách cử tri trong cuộc bầu cử năm 2013
Chính quyền địa phương
Từ thời thuộc Tây Ban Nha, quyền lực chính trị chủ yếu tập trung tại thủ đô Manila. Năm 1893, chính quyền thực dân thành lập cơ quan nhà nước tại cấp xã. Năm 1905, chính quyền Hoa Kỳ tổ chức chính quyền địa phương tại cấp tỉnh. Từ năm 1935, chính quyền địa phương trực thuộc tổng thống. Chính quyền trung ương ban hành luật phân quyền cho địa phương vào năm 1959 và năm 1967 nhưng bầu cử địa phương bị bãi bỏ sau khi chế độ quân quản được thành lập vào năm 1972.
Hiến pháp năm 1987 quy định địa phương phải được tự trị. Bộ luật chính quyền địa phương năm 1991 phân quyền từ trung ương về địa phương. Các đơn vị hành chính của Philippines được phân định như sau: nước chia thành tỉnh và thành phố độc lập; tỉnh chia thành thành phố và thị xã; thành phố và thị xã chia thành xã. Xã trưởng, thị trưởng, tỉnh trưởng là người đứng đầu chính quyền địa phương, hội đồng địa phương là cơ quan lập pháp địa phương. Bộ luật chính quyền địa phương quy định xã hội dân sự được tham gia vào chính quyền địa phương. Đại biểu dân cử có thể bị bãi nhiệm và chính quyền địa phương có thể tổ chức trưng cầu ý dân về luật địa phương. Tiền thân của khu tự trị là Khu tự trị Mindanao Hồi giáo, được thành lập từ năm 1989 trên cơ sở hợp nhất bốn tỉnh sau một cuộc trưng cầu ý dân. Bầu cử thống đốc, phó thống đốc và hội đồng địa phương được tổ chức lần đầu tiên vào năm 1990.
Trong một cuộc trưng cầu ý dân năm 2019, đa số cử tri tán thành thành lập Khu tự trị Bangsamoro trên cơ sở kế thừa Khu tự trị Mindanao Hồi giáo. Thủ đô Manila có quy chế chính quyền địa phương đặc thù, thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn tương đương với chính quyền địa phương cấp vùng.
Văn hóa và ảnh hưởng
Tuy bầu cử tại Philippines còn nhiều bất cập và tồn tại hoài nghi về lợi ích của việc đi bầu cử nhưng dư luận vẫn ủng hộ nền dân chủ, báo chí tự do và một hệ thống pháp luật ổn định. Trung bình hơn 75% số cử tri đi bầu cử quốc hội, tổng thống. Tuy nhiên, người dân Philippines hiếm khi tham gia chính trị theo những hình thức khác, như sinh hoạt chính đảng, xã hội dân sự và công đoàn. Nhiều phong trào chính trị bắt nguồn trực tiếp từ quần chúng, ví dụ như cuộc nổi loạn cộng sản và những sự kiện "Quyền lực Nhân dân". Thời kỳ thiết quân luật đã làm suy yếu lòng tin của người dân Philippines đối với nhà nước và các thể chế nhà nước như cảnh sát. Sự thất bại trong việc phân phối lại ruộng đất đã hạn chế sự phát triển của nền kinh tế và góp phần tạo nên bất bình đẳng chính trị. Tuy nhiên, những phong trào chính trị cánh tả đã suy yếu từ sau khi dân chủ được lập lại.
Một giai cấp trung lưu nhỏ, tập trung ở những khu vực đô thị như Manila được tuyển chọn vào bộ máy nhà nước và có vai trò quan trọng trong xã hội dân sự. Tuy quá nhỏ để tác động đến chế độ chính trị nhưng những tổ chức xã hội dân sự này đã thay đổi được chính sách trong một vài trường hợp. Điển hình là vai trò của xã hội dân sự trong Cách mạng Quyền lực Nhân dân, khiến cho dư luận ủng hộ một chính sách kỹ trị, kinh tế thị trường tự do trong một khoảng thời gian ngắn.
Đôi khi có xung đột giữa giai cấp trung lưu này và giai cấp nghèo mà một ví dụ rõ ràng là sự khác biệt giữa cuộc biểu tình EDSA II và EDSA III. Trong khi Cách mạng Quyền lực Nhân dân có sự tham gia của cả hai giai cấp thì EDSA II chủ yếu do giai cấp trung lưu lãnh đạo, EDSA III thì bắt nguồn từ giai cấp nghèo. EDSA II thành công nhưng EDSA III thất bại. Tuy hiến pháp cấm chính trị thế phiệt nhưng chưa có luật quy định rõ chính trị thế phiệt là như thế nào. Quy định giới hạn nhiệm kỳ không thực sự hiệu quả trong việc hạn chế tình trạng chính trị thế phiệt.
Công giáo
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Protests_against_RH_Bill_at_EDSA_20120804_(06)_-_Flickr.jpg|nhỏ|Biểu tình phản đối Luật Sức khỏe sinh sản năm 2012 Ảnh hưởng của Công giáo đối với chính trị bắt nguồn từ thời thuộc Tây Ban Nha. Tuy Công giáo đã được tách biệt với chính quyền từ khi Hoa Kỳ cai trị Philippines nhưng Giáo hội vẫn duy trì ảnh hưởng xã hội đối với cả tầng lớp thế phiệt và dân chúng.
Các dòng tu như Dòng Tên và Opus Dei sở hữu những trường đại học tư thục về luật, y và kinh doanh.
Từ khi lộ hàng loạt vụ dâm ô trong Giáo hội và Hồng y Tân Hải Miên qua đời thì thế lực chính trị của Công giáo đã suy giảm. Ví dụ điển hình của sự thoái trào của Công giáo là việc chính quyền Benigno Aquino thông qua Luật Sức khỏe sinh sản năm 2012: Giáo hội từ lâu đã phản đối các biện pháp tránh thai, kế hoạch hóa gia đình nhưng dư luận ủng hộ đạo luật. Chính quyền Rodrigo Duterte cũng xung đột với Giáo hội. Tuy Duterte không ủng hộ chế định ly hôn nhưng sự ủng hộ trong Quốc hội tăng mạnh sau khi ông trúng cử tổng thống. Một dự luật chế định quyền ly hôn được Hạ viện thông qua nhưng bị Thượng viện bác bỏ; dự luật đã được trình lại trước Quốc hội khóa tiếp theo.
Quân đội Philippines
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:2007ManilaPenSiegeMap.jpg|nhỏ|Trong cuộc binh biến Oakwood năm 2003 và cuộc bao vây khách sạn Manila Peninsula năm 2007 tại Makati, một bộ phận quân nhân đã chiếm đóng một vài tòa nhà vì bất mãn với chính quyền của [[Gloria Macapagal Arroyo.]] Quân đội Philippines bắt đầu chính thức can thiệp vào đời sống kinh tế xã hội từ sau cuộc nổi loạn của Nhân dân quân chống Nhật. Trong thời kỳ thiết quân luật, quân đội mở rộng quy mô gấp ba lần nhằm đối phó với các lực lượng cộng sản, Hồi giáo.
Hiến pháp năm 1987 duy trì nguyên tắc quân đội phục tòng chính quyền của hiến pháp năm 1973 và bổ sung quy định quân đội có nhiệm vụ "bảo vệ nhân dân và nhà nước".
Quân đội Philippines chịu sự giám sát của phó chánh thanh tra về quân đội, Ủy ban Nhân quyền và tòa án thường dân. Kích động binh biến và phản loạn là tội từ sau vụ đảo chính hụt năm 1989. Tuy nhiên, sự giám sát lỏng lẻo tiếp tục tạo điều kiện cho quân đội can thiệp vào chính trị. Trong Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ trực tiếp và gián tiếp tác động nhằm củng cố chính quyền Philippines. Quân đội Hoa Kỳ trợ giúp quân đội Philippines trấn áp Quân đội Nhân dân kháng Nhật và đã can thiệp nhằm bảo vệ chính quyền Aquino khỏi một nỗ lực đảo chính vào năm 1989.
Ảnh hưởng của Hoa Kỳ bắt đầu suy giảm từ thập niên 90. Philippines quyết định không gia hạn thỏa thuận cho thuê căn cứ quân sự cho Hoa Kỳ và bắt đầu mở rộng quan hệ đối ngoại trong khu vực. Sau sự kiện ngày 11 tháng 9, quan hệ an ninh giữa hai nước được tăng cường. Philippines cho phép một số binh lính Hoa Kỳ trở lại nhằm hợp tác trong Chiến tranh hống khủng bố.
Tây Ban Nha dần dần chinh phục phần lớn quần đảo Philippines nhưng không hoàn toàn kiểm soát được những khu vực Hồi giáo ở phía nam và miền cao nguyên Cordillera. Trong suốt thời kỳ thuộc địa, quần đảo Philippines phân hóa về địa phương và ngôn ngữ.
Chính quyền thuộc địa chịu sự chi phối của Giáo hội Công giáo, đặc biệt là các thầy dòng. Philippines là một phần của Tân Tây Ban Nha dưới quyền cai trị của quốc vương và Hội đồng Thuộc địa Ấn Độ Toàn quyền Philippines là người đứng đầu thuộc địa. Những người bản địa thuộc tầng lớp quý tộc, trong chính quyền hoặc đóng thuế trở thành một giai cấp mới gọi là principalia, dần dần hình thành nếp sống riêng, được giáo dục và kết hôn với những quan chức Tây Ban Nha, thương gia Trung Quốc.
Từ thế kỷ 19, Philippines mở cảng tham gia thương mại thế giới, tạo nên những biến đổi trong xã hội Philippines. Cơ cấu kinh tế thay đổi dẫn tới sự hình thành của một giai cấp trung lưu, thượng lưu mới sự phát triển của ngành công chức. Sự thắng lợi của những phong trào giành độc lập tại các thuộc địa của Tây Ban Nha ở châu Mỹ và làn sóng nhập cư vào Philippines tác động đến tinh thần dân tộc của dân bản địa: từ Filipino ban đầu nghĩa là một người Tây Ban Nha sinh ra ở Philippines, dần dần mang nghĩa mới là bao gồm các dân tộc bản địa trên quần đảo Philippines. Đi tiên phong trong phong trào dân tộc này là những gia đình giàu, có gốc châu Âu lai bản địa. Một giới trí thức bản địa xuất hiện, tích cực tham gia vào chính trị, chính quyền thuộc địa. liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Ilustrados_1890.jpg|nhỏ|Giới trí thức Philippines tại Madrid, Vào thập niên 80, thế kỷ 19, một vài trí thức Philippines nổi bật phát động Phong trào Tuyên truyền nhằm vận động giành quyền tự trị cho Philippines nhưng những cải cách của phong trào đều bị chính quyền Tây Ban Nha bác bỏ. Năm 1892, tổ chức cách mạng Katipunan được thành lập dưới sự lãnh đạo của Emilio Aguinaldo, đại diện cho giai cấp trung lưu của Manila, tiền thân là một phe của Phong trào Tuyên truyền, chủ trương độc lập hoàn toàn cho Philippines. Năm 1896, Katipunan phát động Cách mạng Philippines. Ngày 12 tháng 6 năm 1898, Aguinaldo đọc tuyên ngôn độc lập Philippines. Quốc hội Malolos do Chính phủ Cách mạng triệu tập ban hành Hiến pháp Malolos, khai sinh Đệ nhất Cộng hòa Philippines. Chiến tranh Hoa Kỳ - Philippines nổ ra vào tháng 2 năm 1899 sau khi quân Hoa Kỳ nổ súng vào một nhóm phiến quân Philippines tại Manila. Aguinaldo bị quân Hoa Kỳ bắt giữ vào ngày 1 tháng 4 năm 1901 Hoa Kỳ mở rộng chủ quyền đến Hồi quốc Sulu và bình định những khu vực miền núi. Chính quyền Philippines thi hành chính sách di dân Công giáo đến Mindanao nhằm thay đổi cơ cấu dân số, củng cố chính quyền địa phương. Tuy nhiên, những khu vực Hồi giáo tiếp tục duy trì hai chế độ chính trị song song.
Năm 1916, Quốc hội Hoa Kỳ thông qua Luật Jones, phân quyền tự trị cho Philippines và cam kết sẽ trao độc lập trong tương lai. Nghị viện của Philippines được trao nhiều quyền hạn hơn, trong khi Đảng Quốc dân thì chiếm quyền kiểm soát các cơ quan nhà nước nhằm làm suy yếu sự kiểm soát của Hoa Kỳ. Sau khi thượng viện trong nghị viện được thành lập thì Đảng Quốc dân phân hóa thành hai phe đối địch nhau: phe Unipersonalistas của Osmeña và phe Colectavistas của Chủ tịch Thượng viện Manuel L. Quezon. liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Signing_the_Constitution_of_the_Philippine_Commonwealth,_23_March_1935.jpg|nhỏ|Tổng thống Hoa Kỳ [[Franklin D. Roosevelt ký ban hành Hiến pháp Philippines năm 1935 có Chủ tịch Thượng viện Philippines Manuel L. Quezon chứng kiến.]] Năm 1935, Quezon trúng cử tổng thống, Osmeña trúng cử phó tổng thống. Năm 1937, phụ nữ Philippines được trao quyền bầu cử. Chính quyền Philippines quy định một chương trình giáo dục chung trên toàn quần đảo chức danh tổng thống Philippines so với tổng thống Hoa Kỳ. Trong thời kỳ chuyển tiếp, chính quyền Hoa Kỳ lúc thì đối xử với Philippines như một nước độc lập, lúc thì như một lãnh thổ thuộc quyền tài phán của Hoa Kỳ.
Năm 1941, Nhật Bản xâm lược Philippines, buộc chính quyền phải lưu vong. với Hiệp hội Phục vụ Tân Philippines là đảng cầm quyền duy nhất, José P. Laurel làm tổng thống. Ở các khu vực nông thôn, dân địa phương tự phát thành lập chính quyền, phát động kháng chiến dưới sự lãnh đạo của Nhân dân quân chống Nhật. Chính quyền đàn áp một phong trào chính trị cánh tả bắt nguồn từ Nhân dân quân chống Nhật, khiến cho Đảng Cộng sản Philippines tuyên bố đấu tranh chính trị vũ trang chống chính quyền. Quyền bầu cử được phổ cập đến toàn bộ người dân nhưng quyền lực chính trị vẫn tập trung vào tay của một thiểu số quý tộc. Nền kinh tế Philippines bắt đầu tăng trưởng, đa dạng hóa, làm gia tăng nạn tham ô công quỹ. Hệ thống chính trị vẫn chịu sự chi phối của hai đảng chính nhưng thực tế là không có sự khác biệt lớn về chính sách, cương lĩnh giữa hai đảng mà chỉ là phương tiện cho tầng lớp thế phiệt vào chính quyền. Phó Tổng thống Carlos P. Garcia kế nhiệm ông và tái cử trong cuộc bầu cử cùng năm. Garcia duy trì chính sách "ưu tiên Philippines" Năm 1961, Phó Tổng thống Diosdado Macapagal thuộc Đảng Tự do trúng cử tổng thống. Macapagal khôi phục chính sách kinh tế thị trường tự do và nỗ lực thực hiện cải cách ruộng đất, điện khí hóa. liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Marcos_Declares_Martial_Law.jpg|trái|nhỏ|Tổng thống [[Ferdinand Marcos ra lệnh thiết quân luật]] Từ thập niên 1960, nền kinh tế tăng trưởng mạnh, đa dạng hóa. Doanh nghiệp tư nhân tập trung quyền lực kinh tế trong khi truyền thông đại chúng phát triển.
Marcos hoàn toàn kiểm soát bộ máy nhà nước, chính quyền địa phương, quân đội, báo chí và Ủy ban Bầu cử. Năm 1978, quốc hội lâm thời được bầu ra. Marcos thành lập Phong trào Xã hội Mới nhằm tham gia bầu cử quốc hội lâm thời và bầu cử địa phương vào năm 1980 và đã thắng cử lớn trong cả hai cuộc bầu cử. Quốc hội lâm thời chỉ là cơ quan lập pháp trên danh nghĩa mà không có thực quyền. và Marcos dễ dàng tái cử. Năm 1983, nhà lãnh đạo đối lập Benigno Aquino Jr. bị ám sát sau khi trở về Philippines từ lưu vong.
Kinh tế suy thoái, chính quyền tham nhũng liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Corazon_Aquino_inauguration.jpg|nhỏ|Lễ tuyên thệ nhậm chức của [[Corazon Aquino vào ngày 25 tháng 2 năm 1986.]] Hiến pháp năm 1987 khôi phục nền dân chủ phỏng theo hiến pháp năm 1935 Chính quyền Aquino trải qua hàng loạt cuộc đảo chính hụt và ủng hộ Fidel V. Ramos trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1992 mặc dù ông đã rời khỏi đảng của bà và thành lập đảng mới. Ramos thắng cử nhưng bị cáo buộc gian lận bầu cử. Cuộc tổng tuyển cử năm 1992 là lần đầu tiên bầu cử tổng thống, quốc hội và địa phương được tổ chức cùng lúc. Sau khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, chính sách kinh tế tự do của Ramos bị chỉ trích nặng nề. Năm 1998, Joseph Estrada, phó tổng thống của Ramos, dễ dàng trúng cử tổng thống trên cương lĩnh dân túy, tranh thủ cử tri nghèo. và quân đội tuyên bố ủng hộ Phó Tổng thống Arroyo. Estrada buộc phải từ chức và tháo chạy khỏi Cung Malacañang. Tòa án tối cao tuyên bố khuyết tổng thống và Arroyo kế nhiệm Estrada. liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Rodrigo_Duterte_and_his_predecessors_(Ramos,_Estrada,_Arroyo_and_Aquino_III).jpg|trái|nhỏ|Các tổng thống [[Joseph Estrada, Gloria Macapagal Arroyo, Rodrigo Duterte, Fidel Ramos và Benigno Aquino III]] Arroyo tuyên thệ nhậm chức vào ngày 20 tháng 1 năm 2001. Vây cánh của Estrada tổ chức biểu tình yêu cầu phục chức ông nhưng bất thành. Trong cuộc tổng tuyển cử năm 2001, Liên minh Quyền lực Nhân dân của Arroyo thắng cử đa số trong Quốc hội. Cuộc binh biến Oakwood xảy ra tại Manila vào năm 2003 với mục đích lật đổ chính quyền. Arroyo tái cử tổng thống vào năm 2004 với 40% số phiếu bầu nhưng sự thật là bà đã chỉ đạo dàn xếp cuộc bầu cử. Một cuộc binh biến khác xảy ra trong nhiệm kỳ thứ hai của bà. Vào cuối nhiệm kỳ, Arroyo là tổng thống không được tín nhiệm cao nhất kể từ sau Cách mạng Quyền lực Nhân dân năm 1986.
Năm 2010, Benigno Aquino III, con trai của cố tổng thống Aquino, trúng cử tổng thống. Chính quyền Aquino được xem là ổn định, tương đối trong sạch và có mức tín nhiệm cao nhất kể từ Marcos. Mức tín nhiệm của Aquino giảm sút vào cuối nhiệm kỳ do dư luận bất mãn về chế độ chính trị bị xơ hóa nói chung chứ không phải riêng gì Aquino. Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2016, thị trưởng Thành phố Davao Rodrigo Duterte thắng cử trước ứng cử viên của Aquino.
Duterte tranh cử trên cương lĩnh dân túy, tranh thủ nhiều tầng lớp kinh tế xã hội, nhất là giai cấp trung lưu. Chính quyền Duterte thi hành chính sách "Chiến tranh chống ma túy" dẫn tới hàng nghìn người thiệt mạng và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Chính quyền nỗ lực chấm dứt cuộc nổi loạn của phiến quân cộng sản và giảng hòa với Mặt trận Hồi giáo Giải phóng Moro bằng cách thành lập chính quyền tự trị Bangsamoro thay thế cho chính quyền địa phương cũ. Chính quyền duy trì chính sách kinh tế của Aquino, tập trung giảm nghèo.
Tháng 5 năm 2022, Ferdinand Marcos Jr (biệt danh là "Bongbong"), con trai của cựu tổng thống Ferdinand Marcos, trúng cử tổng thống với gần 59% số phiếu bầu. Phó tổng thống là Sara Duterte, con gái của tổng thống mãn nhiệm Rodrigo Duterte. Marcos và Sara Duterte tuyên thệ nhậm chức vào ngày 30 tháng 6 năm 2022.