✨Chiến dịch Nam Kinh (1659)

Chiến dịch Nam Kinh (1659)

Chiến dịch Nam Kinh là một loạt các trận đánh diễn ra tại Giang Tô, Chiết Giang và Nam Kinh. Quân Thanh đã giành thắng lợi quyết định đánh bại hoàn toàn quân đội của tướng Trịnh Thành Công bảo vệ Nam Kinh.

Bối cảnh

Năm Thuận Trị thứ 15 (năm 1658), quân Thanh chia làm ba lộ đồng loạt tấn công đánh chiếm Quý Châu. Lý Định Quốc chiến bại, chính quyền Vĩnh Lịch rơi vào hoàn cảnh khó khăn và nguy hiểm. Trịnh Thành Công nhận thấy chủ lực quân Thanh tập trung tại Vân Nam và Quý Châu, cho rằng đây là thời cơ tốt để bắc phạt, quyết định đích tân soái lĩnh quân đội chủ lực và chiến hạm một lần nữa bắc phạt Nam Kinh.

Ngày 27 tháng 5, Cam Huy dẫn quân đánh chiếm Đồng Sơn (nay là Đỉnh huyện Phúc Châu Phúc Kiến, Viện Cảnh Chiết Giang). 10 tháng 6, Trương Hoàng Ngôn, Cam Huy, Mã Tín tập trung binh lực tiến công Ôn Châu phủ thuộc Thụy An huyện thành. Triều đình nhà Thanh tập trung binh lực tại Chiết Giang thiết lập phòng tuyến tại Hà Nam, Giang Tây, Sơn Đông, Sơn Tây phòng thủ quân Trịnh tấn công.

Tại Ôn Châu, Trịnh Thành Công hạ lệnh thao luyện binh mã, chuẩn bị bắc phạt, tiến quân vào Trường Giang, giải phóng Nam Kinh. Ngày 9 tháng 8, Trịnh Thành Công soái lĩnh đại quân từ Châu Sơn tiến đánh Dương Sơn (nay là Đại Dương Sơn, thuộc Khi Khu quần đảo) tạo lập căn cứ chuẩn bị tiến đánh Nam Kinh.

Diễn biến

Quân Trịnh bắc phạt

Năm Thuận Trị thứ 16 (năm 1659), tháng 4, Trịnh Thành Công và Trương Hoàng Ngôn hợp lực được hơn 100.000 quân bắc phạt. Ngày 28 tháng 4,tấn công Định Hải Chiết Giang. Qua hai ngày giao chiến ác liệt, quân Trịnh tiêu diệt quân Thanh đang trấn thủ, giải phóng pháo đài Định Hải quan, đánh đắm hơn 100 chiến hạm thủy quân Thanh. Sau đó, thừa thắng quân Trịnh tiếp tục tiến công Ninh Ba phủ Chiết Giang. Ngày 19 tháng 5, quân Trịnh tiến đến Ngô Tùng khẩu, Trịnh Thành Công phái người bí mật liên lạc với thủ vệ Mã Bồng Tri là tướng giữ Ngô Tùng khẩu kêu gọi ông ta hưởng ứng khởi nghĩa.Tuy nhiên, Mã Bồng Tri án binh bất động, chờ xem quân Trịnh tiến công Nam Kinh thắng bại mới tỏ thái độ. Ngày 1 tháng 6, quân Trịnh tiến đánh Giang Dương. Trịnh Thành Công tiếp thu kiến nghị của chư tương không đánh những huyện nhỏ mà tấn công về phía tây xâm nhập nội địa.

Ngày 16 tháng 6, quân Trịnh tấn công Qua Châu, phá tan quân Thanh chém đầu tướng du kích là Tả Vân Long. Tiên đoán quân Thanh sẽ liên kết chiến hạm, phong tỏa đường thủy, đường biển hình thành phòng tuyến Cổn Giang Long ngăn chặn quân Trịnh tiến công Nam Kinh. Quân Trịnh vòng qua Chương Gia Châu tránh mai phục của quân Thanh rồi đột kích Qua Châu. Trong một ngày, quân Trịnh giải phóng Qua Châu, tuần phủ Thao Giang Châu Y Trợ đầu hàng. Trịnh Thành Công lệnh cho Lưu Du trấn thủ Qua Châu tiểu trừ tàn quân Thanh.

Ngày 22 tháng 6, Quân Trịnh đánh tan quân Thanh do tuần phủ Giang Ninh Tưởng Quốc Trụ chỉ huy tại Lương Sơn Trấn Giang. Quan đề đốc Quãn Hiếu Trung phái quân chi viện Trấn Giang. Tuy nhiên, tướng giữ thành Trấn Giang Cao Khiêm và tri phủ Đái Hà hiến thành Trấn Giang đầu hàng quân Trịnh. Trịnh Thành Công lệnh hữu võ vệ tướng quân Châu Toàn Bân và hậu xung trấn Hoàng Chiêu tiến quân vào trấn thủ thành Trấn Giang. Cho hàng tướng Cao Khiêm tham gia thủ thành, để công quan Mã Trừng Thế và Đái Hà quãn lý Trấn Giang. Ngày 26 tháng 6, Trương Hoàng Ngôn cùng phối hợp cùng Trịnh Thành Công tiến công Nam Kinh.

Quân Thanh phòng thủ

Đầu tháng 7 năm 1659, thừa thắng chủ lực quân Trịnh từ Quán Âm Môn tiến công thành Giang Ninh. Trương Hoàng Ngôn khuyên Trịnh Thành Công nên thừa thắng đánh ngay Nam Kinh. Trịnh Thành Công dẫn đại quân phân binh bao vây Nam Kinh. Tổng binh Giang Ninh Lang Đình Tá một mặt sai người đến đại bản doanh quân Trịnh tỏ ý quy thuận để thi hành kế hoãn binh. Trịnh Thành Công phát sinh tư tưởng kiêu ngạo khinh địch bất chấp can ngăn của Cam Huy và các bộ tướng chỉ đóng quân hạ trại tại ngoài thành Nam Kinh án binh bất động không tấn công. Lang Đình Tá vội vã khẩn cấp báo tin tình hình Nam Kinh cho triều đình nhà Thanh biết. Thuận Trị đế, sau khi nghe tin Trịnh Thành Công bao vây Nam Kinh lấy làm kinh ngạc di thường. Thuận Trị lo lắng nếu như Nam Kinh thất thủ thì một dãy giang sơn phía nam sông Trường Giang sẽ mất về tay các thế lực phản Thanh phục Minh và cũng sẽ có nhiều người hưởng ứng tạo phản triều đình nhà Thanh có nguy cơ diệt vong.

Thuận Trị phong Đạt Tố làm an nam tướng quân, con cháu quân Bát Kỳ là Cổ Sơn Ngạch Chân Tố Hồng làm vệ quân tổng lệnh đem đại quân tăng viện Giang Tô, giải vây Nam Kinh. Bổ nhiệm đề đốc Giang Tây Dương Tiệp làm Tùy Chinh tả lộ quan tổng binh, tổng binh Ninh Hạ Lưu Phương Danh làm Tùy Chinh hữu lộ quan tổng binh, thống lĩnh thủ hạ binh mã tại Giang Tây, Ninh Hạ ngăn cản quân Trịnh tấn công. Quân Trịnh vây thành Nam Kinh hơn 10 ngày vẫn không phát động tấn công khiến cho sỉ khí giảm sút. Cam Huy nhiều lần can gián nhưng Trịnh Thành Công bỏ ngoài tai trong quân Thanh trong thành Nam Kinh khẩn trương bố trí phòng thủ chờ viện binh. phản công. Chỉ huy quân đội Bát Kỳ Khách Khách Mộc đem quân đến ngoại thành Nam Kinh mai phục chờ lệnh.Lang Đình Tá hạ lệnh chiêu một thủy thủ, trang bị vũ khí, chuẩn bị phản công.

Quân Thanh phản công

Cuối tháng 7 năm 1659, quân Thanh tăng cường phòng thủ Nam Kinh. Trịnh Thành Công chính đốn quân đội tấn công Nam Kinh nhưng không hạ được thành. Lương Hóa Phong dẫn kỵ binh từ Nghi Phong môn, Quan Hiếu Trung từ Chung Phụ môn đột kích doanh trại Dư Tân. Dư Tân binh bại bị quân Thanh bắt. Sau đó, quân Thanh phục binh ngoài doanh trại quân Trịnh chuẩn bị tấn công. Sau khi, tập hợp đủ binh lực quân Thanh toàn diện phát động tấn công. Quân Trịnh đại bại rút chạy.

Trịnh Thành Công tiến quân đến Quán Âm Sơn và Quán Âm Môn chuẩn bị đồng thanh quyết chiến với quân Thanh. Phái tả tiên phong trấn Dương Tổ thống lĩnh quân đội đánh tả trấn Diêu Quốc Thái, hậu kính Dương Chính. Để tướng trung quân Giám Diễn đóng tại Đại Sơn, yễm trợ tiền quân. Trung quân Cam Huy và ngũ quân Trương Anh phục binh phía sau núi. Tả võ vệ Lâm Thắng và hữu hổ vệ Trần Khôi xuống núi nghênh địch. Bản thân cùng tả hổ vệ Trần Bàng, tả trung trấn Phương Lục đóng tại Quán Âm môn tiếp ứng. Để đề đốc Phương Lệ, Tuyên Nghị Tả trấn Phương Nghĩa đóng quân tại cầu Đại Kiều. Tả đề đốc Mã Tín và Ngô Mông, chính quân trấn Hàn Anh, Hoàng An thống lĩnh thủy sư phong thủ quân Thanh tấn công từ phía sau.

Tại Nam Kinh, sau khi giải vây các tướng Lương Hóa Phong, Quản Hiếu Trung đem quân xuất thành truy kích quân Trịnh. Ngang Bang Chương Kinh Khách Khách Mộc, Mai Cách Chương Kinh Cát Trữ Cáp, Mã Nhĩ Tái và tổng binh Lương Hóa Phong đợi chủ lực quân lục lộ xuất chiến, đề đốc Quản Hiếu Trung đợi lệnh đem thủy quân phối hợp. Tổng đốc Lang Đình Tá thủ thành. Ngày 24 tháng 7, quân Thanh tiến đến Quán Âm Sơn tấn công quân đội Dương Tổ. Quân Trịnh tuy anh dũng chiến đấu nhưng binh lực không đủ sức kháng địch đông hơn nhiều. Giám Diễn trận vong, Dương Chính, Dương Tổ, Diêu Quốc Thái dẫn tàn quân bỏ trốn, Sơn Đầu Toại bị quân Thanh đánh chiếm. Trịnh Thành Công phái Trần Bàng, Phương Lục cứu viện nhưng không kịp. Quân Thanh đóng trại trên núi giao chiến với quân Trịnh ác liệt. Quân Thanh bao vây tấn công mãnh liệt Cam Huy và Trương Anh. Hai tướng liều chết tử chiến, Cam Huy bị bắt, Trương Anh trận vong. Quân Thanh tiếp tục tấn công doanh trại Lâm Thắng, Trần Khôi. Phương Lễ đóng quân tại cầu Đại Kiều bị quân Thanh vây đánh, binh bại, bị bắt. Phương Nghĩa theo đường thủy bỏ trốn. Trịnh Thành Công thấy cục diện thất bại, mệnh lệnh tham quân vệ quan Phan Canh và Hoàng Cái bảo vệ hậu quân.

Cục diện thất bại đã định, quân Thanh thừa thắng truy kích quân Trịnh, Phan Canh trận vong. Trịnh Thành Công thu thập tàn quân theo hướng đông rút lui ra Hoàng Hải.

Ảnh hưởng

Đầu tháng 8 năm 1959, Quân Trịnh tiến quân đến đảo Sùng Minh. Trịnh Thành Công quyết định trước lấy đảo Sùng Minh làm căn cứ địa, sau phái người về Hạ Môn điều động thêm quân tiếp viện ý đồ tái tổ chức quân đội tiếp tục tấn công Giang Ninh. Quân Thanh sử dụng hồng y đại pháo bắn phá chiến hạm quân Trịnh. Hạm đội quân Trịnh bị trúng đạn tử thương vô số, nhiều chiến hạm bị bắn chìm. Tấn công đảo Sùng Minh thất bại Trịnh Thành Công hạ lệnh rút lui, theo đường biển rút về phía nam. Ngày 7 tháng 9, quân Trịnh rút lui về Hạ Môn cố thủ.

Quân Trịnh chiến bại tại thành Nam Kinh, nguyên khí và binh lực bị tổn thất nặng nề, hạm đội buộc phải rút chạy về hướng đông ra biển. Trịnh Thành Công không thể nào tái lập lực lượng bắc phạt thêm một lần nữa.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến dịch Nam Kinh** là một loạt các trận đánh diễn ra tại Giang Tô, Chiết Giang và Nam Kinh. Quân Thanh đã giành thắng lợi quyết định đánh bại hoàn toàn quân đội của
**Chiến dịch phản công** là thuật ngữ quân sự sử dụng để mô tả các chiến dịch tấn công quy mô lớn, thường là chiến dịch tiến hành sau khi một đạo quân đã chặn
**Nam Minh** (, 1644–1662) là một Triều đại Trung Quốc được chính dòng dõi con cháu và các quan lại trung thành của nhà Minh thành lập ở phía Nam Trung Quốc ngay sau khi
**Chiến tranh Pháp-Tây Ban Nha** là một cuộc xung đột quân sự đã đẩy nước Pháp tham chiến trong Chiến tranh Ba mươi năm. Sau khi các đồng minh Đức của Thụy Điển buộc phải
**Chiến tranh Đại liên minh** (1688-1697) - thường được gọi là **chiến tranh chín năm**, cuộc **chiến tranh Kế vị Palatine**, hoặc **chiến tranh của Liên minh Augsburg** - là một cuộc chiến lớn cuối
## Bối cảnh Thuận Trị năm thứ 16 (năm 1659), Trịnh Thành Công bắc phạt Nam Kinh thất bại trở về Hạ Môn chỉnh đốn lại lực lượng. Quân Thanh tận dụng quân Trịnh vừa
**Danh sách các trận chiến** này được liệt kê mang **tính địa lý, theo từng quốc gia với lãnh thổ hiện tại**. ## Áo * Trận đồng Marchfeld (**Trận Dürnkrut và Jedenspeigen**) - 1278 *
**Chiến tranh đảo Crete** (, ), còn được gọi là **Chiến tranh Candia** () hay **Chiến tranh Ottoman–Venezia lần thứ năm**, là một cuộc xung đột kéo dài từ năm 1645 đến năm 1669 giữa
**Mậu dịch Nanban** (tiếng Nhật: 南蛮貿易, _nanban-bōeki_, "Nam Man mậu dịch") hay "thời kỳ thương mại Nanban" (tiếng Nhật: 南蛮貿易時代, _nanban-bōeki-jidai_, "Nam Man mậu dịch thời đại") là một giai đoạn trong lịch sử Nhật
**Đại chiến Thổ Nhĩ Kỳ** (Tiếng Đức: _Großer Türkenkrieg_), còn được gọi là **Chiến tranh Liên đoàn Thần thánh** (Tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: _Kutsal İttifak Savaşları_), là một loạt các cuộc xung đột giữa Đế
**Công giáo tại Việt Nam** là một bộ phận của Giáo hội Công giáo, dưới sự lãnh đạo tinh thần của các giám mục tại Việt Nam, hiệp thông với giáo hoàng. Với số tỉ
**Vân Nam** () là một tỉnh ở phía tây nam của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, giáp biên giới với các tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai và Tuyên Quang của Việt Nam.
**Quan hệ ngoại giao giữa Tòa Thánh và Việt Nam** trong lịch sử chưa bao giờ được thiết lập chính thức mặc dù Việt Nam là một quốc gia có số lượng giáo dân Công
**Kinh tế Đàng Trong thời Lê trung hưng** trong lịch sử Việt Nam phản ánh những vấn đề liên quan tới hoạt động kinh tế thuộc vùng đất do chúa Nguyễn quản lý. ## Nông
**Tôn giáo tại Việt Nam** khá đa dạng, gồm có Phật giáo (cả Đại thừa, Nguyên thủy và một số tông phái cải biên như Hòa Hảo, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Bửu Sơn Kỳ Hương,
**Aleksey Mikhailovich** ( ; ; 29 tháng 3  [19 tháng 3 theo lịch cũ] năm 1629 – ) là Sa hoàng của Nga trong những thập kỷ sôi động nhất của giữa thế kỷ 17.
**Thanh Thế Tổ** (chữ Hán: 清世祖; 15 tháng 3 năm 1638 – 5 tháng 2 năm 1661), họ Ái Tân Giác La, húy **Phúc Lâm**, là hoàng đế thứ hai của nhà Thanh và là hoàng
**Triều Tiên Hiếu Tông** (chữ Hán: 朝鮮孝宗; 3 tháng 7 năm 1619 - 23 tháng 6 năm 1659), là vị Quốc vương thứ 17 của nhà Triều Tiên. Ông trị vị từ năm 1649 đến
**Anna Scott, Công tước thứ 1 xứ Buccleuch** cũng gọi là **Anne Scott** (11 tháng 2 năm 1651 – 6 tháng 2 năm 1732) là một Nữ Công tước người Scotland giàu có. Sau khi
**Quân đội Hoàng gia Phổ** () là lực lượng quân sự của Vương quốc Phổ (nguyên là lãnh địa Tuyển hầu tước Brandenburg trước năm 1701). Quân đội Phổ đóng vai trò quan trọng trong
**Louis XIV của Pháp** (; 5 tháng 9 năm 16381 tháng 9 năm 1715), còn được gọi là **Louis Đại đế** (, ) hay **Vua Mặt Trời** (, ), là một quân chủ thuộc Nhà
**Oliver Cromwell** (25 tháng 4 năm 1599 - 3 tháng 9 năm 1658, có tên phiên âm tiếng Việt là **Ô-li-vơ Crôm-oen**) là một nhà lãnh đạo chính trị và quân sự người Anh, người
**Karl XII của Thụy Điển** (tiếng Thụy Điển: _Karl XII av Sverige_; 17 tháng 6 năm 1682 – 30 tháng 11 năm 1718), còn được biết đến dưới tên gọi **Carl XII** (hay **Charles XII**
**Pháp** (; ), tên chính thức là **Cộng hòa Pháp** ( ) (), là một quốc gia có lãnh thổ chính nằm tại Tây Âu cùng một số vùng và lãnh thổ hải ngoại. Phần
**Jan III Sobieski** (17 tháng 8 năm 1629 - 17 tháng 6 năm 1696) là một trong những vị vua nổi tiếng nhất của Vương quốc Ba Lan và Đại Công quốc Litva, là vua
**Mirza Shahab-ud-Din Baig Muhammad Khan Khurram** (5 tháng 1 năm 1592 – 22 tháng 1 năm 1666), còn được gọi là **Shah Jahan I** (; ), là Hoàng đế Mogul thứ 5, trị vì từ
**Minh Tư Tông** (chữ Hán: 明思宗; 6 tháng 2 năm 1611 - 25 tháng 4 năm 1644) tức **Sùng Trinh Đế** (崇禎帝), là vị hoàng đế cuối cùng của triều đại nhà Minh và cũng
**William III** hoặc **Willem III xứ Oranje** (14 tháng 11 năm 1650 – 8 tháng 3 năm 1702) là Thân vương của xứ Orange, từ năm 1672 là _Stadtholder_ các tỉnh Holland, Zeeland, Utrecht, Guelders,
**Quốc gia hetman Cossack** (; , hay _Nhà nước Cossack_), tên chính thức là **Quân đoàn Zaporizhia** (; ), là một nhà nước của người Cossack nằm tại Trung Ukraina. Nhà nước này tồn tại
**Lý Định Quốc** (Phồn thể: 李定國, Giản thể: 李定国, 1620-1662), tự **Hồng Thuận** hay **Ninh Vũ**, tên lúc nhỏ là **Nhất Thuần**; người Diên An, Thiểm Tây, có thuyết là Du Lâm, Thiểm Tây; là
**Trương** (giản thể: 张 ; phồn thể: 張) là một họ của người Việt Nam. Họ Trương cũng có tại Trung Quốc (Zhang), Triều Tiên / Hàn Quốc (Jang), Đài Loan (Chang), và Singapore (Chong).
**Công quốc Milano** (tiếng Ý: _Ducato di Milano_; tiếng Lombard: _Ducaa de Milan_) là một nhà nước ở Bắc Ý, được thành lập vào năm 1395 bởi Gian Galeazzo Visconti, khi đó là lãnh chúa
Ngày **31 tháng 1** là ngày thứ 31 trong lịch Gregory. Còn 334 ngày trong năm (335 ngày trong năm nhuận). ## Sự kiện *314 – Bắt đầu giáo triều của Giáo hoàng Sylvestrô (Latinh:
Chương trình **School Strike for climate** (còn được gọi là **Fridays for Future**, **Youth for Climate**, **Youth Strike 4 Climate** hoặc **Thunbergjugend**) là một phong trào quốc tế của các học sinh quyết định không
**Thượng phụ Nikon** (tiếng Nga: Никон, tiếng Nga cổ: Нїконъ; tên khai sinh: **Nikita Minin (Minov)** _Ники́та Ми́нин (Минов)_; 7 tháng 5 năm 1605 – 17 tháng 8 năm 1681) là Thượng phụ Moskva và
Giai đoạn từ năm 1431 đến năm 1863 trong lịch sử Campuchia được gọi là **thời kỳ Hậu Angkor** hoặc **thời kỳ Đen Tối, thời kỳ Trung Đại****.** Năm 1431, quân Ayutthaya của người Thái
**Bác Lạc** (, chữ Hán: 博洛, 1613 – 23 tháng 4 năm 1652), Ái Tân Giác La, là một Thân vương, một nhà quân sự thời kỳ đầu của nhà Thanh trong lịch sử Trung
**Người Chăm**, **người Chăm Pa** hay **người Degar-Champa** (tiếng Chăm: ꨂꨣꩃ ꨌꩌꨛꨩ, اوراڠ چامفا, _Urang Campa_; tiếng Khmer: ជនជាតិចាម, _Chónchèat Cham_; ; ), còn gọi là **người Chàm**, **người Chiêm**, **người** **Chiêm Thành**, **người Hời**,
**Phục bích** (chữ Hán: 復辟), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế
**James II và VII** (14 tháng 10 năm 1633 – 16 tháng 9 năm 1701) là vua của Anh và Ireland với vương hiệu **James II** và cũng là vua của Scotland với vương hiệu
**Đại Thiện** (; ; 19 tháng 8 năm 1583 – 25 tháng 11 năm 1648) là một hoàng thân Mãn Châu và chính trị gia có ảnh hưởng của nhà Thanh trong thời gian khai
**Felipe IV của Tây Ban Nha** (, ; 8 tháng 4 năm 1605 – 17 tháng 9 năm 1665) là Vua Tây Ban Nha từ năm 1621 đến năm 1665, vương chủ của người Hà
**Samarkand** (, ; ; ; ) là thành phố lớn thứ hai của Uzbekistan và là thủ phủ của tỉnh Samarqand, cách thủ đô Tashkent khoảng 350 km. Đây là một thành phố du lịch nổi
**Quốc vương Thụy Điển** () là người đứng đầu Vương quốc Thụy Điển. Vua truyền ngôi theo chế độ cha truyền con nối; có hệ thống nghị viện phụ việc cho ông. Thời xa xưa,
nhỏ|Úc nhìn qua vệ tinh **Lịch sử Úc** đề cập đến lịch sử khu vực và nhân dân ở Thịnh vượng chung Úc và những cộng đồng bản địa và thuộc địa tiền thân của
Những ghi chép đầu tiên về **lịch sử nước Pháp đã** xuất hiện từ thời đại đồ sắt. Ngày nay, nước Pháp chiếm phần lớn khu vực được người La Mã cổ đại gọi là
**A Tế Cách** (_,_ _chữ Hán:_ 阿濟格_,_ 28 tháng 8 năm 1605 - 28 tháng 11 năm 1651), là một Hoàng tử, Hoàng thân và nhà quân sự có ảnh hưởng thời kỳ đầu nhà
**Muhi ud-din Muhammad Aurangzeb Bahadur Alamgir I**, được biết phổ biến hơn với tên gọi **Aurangzeb** ( (tước hiệu đầy đủ: _Al-Sultan al-Azam wal Khaqan al-Mukarram Abul Muzaffar Muhi ud-din Muhammad Aurangzeb Bahadur Alamgir I,
**Cưu-ma-la-thập** (chữ Nho: 鳩摩羅什; tiếng Phạn: **Kumārajīva**; dịch nghĩa là **Đồng Thọ**; sinh năm 344, mất năm 413) là một dịch giả Phật học nổi tiếng, chuyên dịch kinh sách từ văn hệ tiếng Phạn
**Trương Hiến Trung** (chữ Hán: 张献忠, 01 tháng 1, 1600 – 02 tháng 1, 1647), tên tự là **Bỉnh Trung**, hiệu là **Kính Hiên**, người bảo Giản, huyện Liễu Thụ, vệ Duyên An, là lãnh