✨Bò Hà Lan

Bò Hà Lan

Bò Hà Lan (tên gốc: Bò Holstein Friz, đọc là bò Hôn–xtên hoặc Holstein friezian- viết tắt HF) là một giống bò sữa có nguồn gốc từ Hà Lan gần 2.000 năm trước đây. Bắt nguồn từ bò đen và trắng của Batavian và Friezians được phối giống và loại thải nhằm tạo ra giống bò có sản lượng sữa cao nhất và có khả năng sử dụng vùng đất hạn hẹp của đồng bằng sông Rhine hữu hiệu nhất. Cuối cùng qua quá trình tiến hoá về mặt di truyền đã tạo thành giống bò sữa trắng đen năng suất cao mang tên Holstein Friezian. Đây là giống bò lấy sữa chủ lực của nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam và là một trong những biểu tượng của giống bò sữa. Sữa Dutch Lady bán trên thế giới được lấy từ bò sữa Hà Lan.

Đặc điểm

Bò Hà Lan chủ yếu có màu lông trắng đen, nhưng vẫn có con lang trắng đỏ. Bò cái có thân hình chắc chắn gần như hình thang, tầm vóc lớn, vú to, bầu vú phát triển, mắn đẻ, hiền lành, và có khả năng sản xuất sữa rất cao. Bò sữa thuần Hà Lan có tiềm năng cho sữa cao hơn các giống bò sữa khác. Bò Hà Lan cho trung bình 50 lít/ngày, cho 10.000 – 15.000 lít/chu kì 300 ngày, khi nhập vào những nước nhiệt đới như Việt Nam, cho mỗi ngày trung bình 15 lít, chu kỳ 300 ngày cho 3.600 – 4.000 lít sữa tươi.

Nhiệt độ môi trường thích hợp cho bò sữa được ghi nhận là từ âm 4˚C đến 22˚C, trong đó Nhiệt độ tới hạn của môi trường đối với bò HF là 27OC, khi trời nóng bò Hà Lan giảm ăn 10-15%, để đảm bảo cho bò ăn đủ dinh dưỡng khi khả năng ăn vào giảm, người ta những loại thức ăn có chất lượng cao. Khẩu phần ăn có tổng vật chất khô thấp nhưng hàm lượng các chất dinh dưỡng trong 1 kg chất khô phải cao hơn 10-15% so với bình thường. Đồng thời người chăn nuôi phải luôn có đủ nước sạch, mát cho bò uống tự do suốt ngày đêm. Bò Hà Lan chưa thích nghi với môi trường nóng có nhu cầu nước cao hơn so với bò đã thích nghi.

Bệnh chướng hơi dạ cỏ với các triệu chứng như Hõm hông phía bên trái của bò to và căng phồng lên; Dùng tay ấn vào hay gõ thấy như bùng như quả bóng bơm căng; Ngoài ra còn thấy một số biểu hiện khác như con vật bỏ ăn, không nhai lại, miệng chảy dãi, đứng nằm không yên... Có rất nhiều biện pháp nhưng tất cả các biện pháp đều nhằm mục đích thoát hơi và giảm sự lên men trong dạ cỏ, tùy vào từng trường hợp của ca bệnh mà có các biện pháp can thiệp kịp thời. Dùng ống thông và thông vào thực quản cho hơi thoát ra ngoài. Dùng tay moi hết phân hay bơm nước vào trực tràng để đưa phân ra. Dùng nước dưa chua (3-5lít) hoặc bia hơi (3-5lit) hoặc dung dịch thuốc tím 0,1% (3-5 lit) cho uống kích thích nhu động dạ cỏ. Cho uống magnesi sulfat 200g pha với 3 lít nước: giúp tăng nhu động đẩy hết thức ăn ra ngoài.Hoặc dùng ống Troca để chọc thủng dạ cỏ để thoát hơi trong trường hợp chướng hơi cấp tính.

Bệnh cảm nắng: Sốt cao 41–42˚C; Da khô, niêm mạc mắt xung huyết (đỏ); Nhịp tim, nhịp hô hấp tăng. Con vật co biểu hiện co giật. Đưa con bò vào chỗ râm mát, sau đó thụt nước lạnh vào trực tràng và tháo ra liên tục. Vẩy nước mát lên thân và quạt nhẹ. Nếu con vật co giật, điên loạn khó thở thì trích máu tĩnh mạch cho chảy ra để tránh xung huyết mô và phù phổi. Truyền Nat-ri bi Các-bon-nát (NaHCO3) 500ml, Cho uống nước hòa lẫn Nat-ri bi Các-bo-nát vào mùa nóng. Cho uống 5 lít trà xanh pha đường. Bệnh cảm nóng: Bò ủ rũ, bỏ ăn, sốt cao 40-42˚C. Đưa con vật tới nơi thoáng mát, có thể phun nước lạnh để làm mát bên ngoài cơ thể con vật. Cho con vật uống thuốc điện giải Orezon, dung dịch đường Glucoza đẳng trương...càng nhiều càng tốt. Tiêm thuốc hạ sốt và thuốc trợ tim, trợ sức, trợ lực, truyền dung dịch NaHCO3 (500-1000ml). nhỏ|phải Bệnh viêm bao tim do ngoại vật: Tĩnh mạch cổ sưng (triệu chứng đặc trưng), Ức, ngực và thậm chí cả bụng có hiện tượng phù thũng (triệu chứng đặc trưng); Nhịp tim nhanh và không rõ ràng (tiếng động xa và như có nước ở trong, lẫn tạp âm); Sốt nhẹ; Bò kém ăn hoặc bỏ ăn, đứng khom lưng. Khi cho bò leo lên xuống dốc cao thì bò có biểu hiện đau vùng tim. Dùng phẫu thuật ngoại khoa để lấy dị vật ra. Tiêm kháng sinh: Penicilin 15.000 UI/1kgP + Streptomycin 5–10 mg/kgP liên tục trong 7 ngày đề phòng nhiễm trùng kế phát.

Bệnh ký sinh trùng đường máu như Bệnh tiên mao trùng: Bò thường có hiện tượng sốt cách nhật, sốt về sáng và chiều hoặc sốt 1-2 ngày rồi lại bình thường và sau 2-6 ngày lại sốt trở lại Do tiên mao trùng tiết ra độc tố nên có thể có một số triệu chứng thần kinh như run rẩy, quay cuồng, Bò nhiễm bệnh ngày càng gầy yếu, thiếu máu, giảm sản lượng sữa khi bò đang tiết sữa. Dùng thuốc Azidin Niêm mạc nhợt nhạt do thiếu máu Trypanosoma theileri. Bệnh biên trùng Do Anaplas sống ký sinh ở rìa hồng cầu nên khi bò mắc bệnh thướng có các triệu chứng Biên trùng hút chất dinh dưỡng, phá hủy hồng cầu làm cho con vật gầy yếu và thiếu máu trầm trọng. Do thiếu máu nên có thể nhận thấy niêm mạc mắt và niêm mạc âm hộ có màu sắc nhợt nhạt. Ngoài ra, biên trùng tiết ra độc tố tác động lên hệ thần kinh trung ương gây cho con vật sốt cao kéo dài và đôi khi có biểu hiện thần kinh

Bệnh lê dạng trùng:Do Babesia và theleria ký sinh trong hồng cầu, phát vỡ hồng cầu, hút dinh dưỡng nên con vật thường có một số biểu hiện Thiếu máu: niêm mạc mắt và âm hộ tái nhợt, Sốt cao liên tục 40-41, 5o, Đái ra máu, Các hạch lâm ba sưng và phù thũng, đặc biệt hạch trước vai và hạch dưới đùi, khi điều trị cần tiêm thêm trợ sức, trợ lực, hạ sốt phòng kế phát các bệnh khác và hộ lý chăm sóc cho tốt

Bệnh sán lá gan Do loại sán hình lá cây ký sinh ở trong gan nên con vật thường có một số triệu chứng Viêm gan và tổn thương mô gan, Con vật gầy, mô mỡ và bắp thịt teo dần, Niêm mạc nhợt nhạt, thiếu máu, da vàng, Phù ở vùng hầu, yếm và dưới hàm, Con vật ăn kém, tiêu hóa kém và phân nát. Sán Fasciola hepatica Bò quá gầy do sán lá ganTrứng Fasciola hepatica Ấu trùng Fasciola hepatica. Thành ông mật tăng sinh dày lên đáng kể (giống như cành cây).

Ở giai đoạn là bê thì bò Hà Lan có một số bệnh hay hội chứng như nhỏ|phải Hội chứng ỉa chảy ở bê: Uống nhiều nước, ăn ít hoặc bỏ ăn, không nhai lại, thức ăn ứ lại trong bụng làm chướng bụng. Nếu do vi khuẩn E. Coli, phân nhão, ban đầu màu vàng nhạt sau chuyển màu trắng, mùi rất hôi thối. Nếu do cầu trùng: Phân sền sệt, có lẫn niêm mạc ruột lầy nhầy lẫn máu tươi hoặc màu nâu, có mùi hôi tanh. Nếu do giun đũa: Thường gặp ở bê 1 – 2 tháng tuổi, phân lổn nhổn hoặc sền sệt màu trắng, mùi rất thối, về sau ỉa lỏng, phân dính vào đuôi và hậu môn. Do giun lươn: Gây viêm ruột, ỉa chảy màu vàng. Bê con mất nước nhanh, mắt trũng, da nhăn nheo và chết do mất nước, mất chất điện giải và suy kiệt cơ thể nếu không điều trị kịp thời. Đầu tiên cho bê ăn giảm hoặc ngừng ăn, hạn chế chất đạm. Cho uống nước điện giải Orezon, đường dẳng trương và uống càng nhiều càng tốt. Truyền tĩnh mạch nước muối sinh lý NaCl 0, 9% 1.000ml

Bệnh giun đũa ở bê: Do một loại giun hình chiếc đũa sống và ký sinh ở ruột non bê, nên con vật thường Đau bụng: nằm ngửa dãy dụa, chân đạp vào vùng bụng và bơi chèo, Con bệnh thường chậm chạp, lờ đờ, đầu cúi, lưng cong, bụng to, không muốn ăn và thường năm một chỗ. Giun hút chất dinh dưỡng, tiết ra độc tố làm con vật ỉa chảy. Bê thường đi phân lỏng, lúc đầu phân màu xám sau chuyển dần sang màu trắng và mùi tanh khắm và rất thối. Bệnh giun phổ ở bê: Do một loại giun nhỏ mảnh như sợi chỉ, màu trắng sống và ký sinh ở phế quản và khí quản, Bệnh thường gặp ở bê 3-6 tháng tuổi, Giun thường gây kích ứng niêm mạc khí quản làm cho bê thường có biểu hiện ho, khó thở, chảy nhiều nước mũi và dịch mũi thường lầy nhầy và có thể lẫn máu, Bê thường lờ đờ, nhịp thở tăng và uống ít nước, Ho khan do bị giun phổi.

Bệnh Cầu trùng ở bê: Do một loại cầu trùng ký sinh niêm mặc đường ruột của bê.Thường gặp ở bê 2-4 tháng tuổi.Cầu trùng ký sinh gây tổn thương lớp vi nhung và lớp cơ bao bọc thành ruột gây bong tróc niêm mạc ruột và xuất huyết vì vậy bê thường bị tiêu chảy và phân thường lầy nhầy và lẫn máu. Giai đoạn sau bê chuyển đi táo, cong lưng và đuôi lên nhưng không đi được. Phải kết hợp với kháng sinh phòng nhiễm khuẩn đường ruột và có thể làm se niêm mạc ruột bằng một số loại thuốc nam như búp chè non, búp lá ổi, quả hồng xiêm.....

Bệnh viêm phế quản phổi ở bê: Triệu chứng như bê sốt cao 40-41˚C. Bê có triệu chứng mệt mỏi, ủ rũ, bỏ ăn, chảy nước mắt, nước mũi. Bê bắt đầu có biểu hi1ện khó thở và tiếng thở có tiếng ran như tiếng vò tóc hoặc lép bép. Con vật thường ho nhiều, đặc biệt về đêm và sáng sớm. Đây là bệnh do vi khuẩn gây ra nên có thể dùng kháng sinh để điều trị và có thể dùng một số loại kháng sinh Ngoài ra cần phải kết hợp với các thuốc bổ trợ khác như:hạ sốt, trợ sức, trợ lực. Bệnh viêm rốn ở bê: Thường gặp ở bê sơ sinh từ: 5-7 ngày. Bê uống sữa kém hoặc không uống. Đặc biệt xung quanh vùng rốn sưng to, sờ vào bê rất đau. Sát trùng theo vòng xoáy ốc từ trong ra quanh vùng rốn bằng cồn iod. Dùng một số loại kháng sinh vi khuẩn bội nhiễm.

Bệnh tụ huyết trùng:Sốt cao: 41-42˚C. Niêm mạc mắt mũi đỏ ửng rồi xám tái. Con vật chảy nước mắt, nước mũi và có thể ho khan, ho từng cơn. Bò thường khó thở và thở rất mạnh. Phân lúc đầu thường đi táo nhưng kéo dài sẽ ỉa chảy và phân thường lẫn máu. Bò thường mệt mỏi, ủ rũ, nhai lại kém.Tỷ lệ chết cao vì vậy cần phải phòng tránh bằng việc tiêm phòng vacxin định kỳ. Đây là bệnh do vi khuẩn Gram (–) gây ra vì vậy có thể dùng một số loại kháng sinh tiêm liên tục 3-5ngày, liều lượng như phần bệnh viêm phế quản – phổi. Ngoài việc dùng kháng sinh cần kết hợp với các thuốc hạ sốt, trợ sức, trợ lực và hộ lý chăm sóc chu đáo bò bị suy nhược, mũi chảy dịch, hoặc mủ màng phổi dày lên sẽ tạo ra màng xoang ngực giả. Các tổn thương do viêm phổi gắn liền với viêm màng phổi. Tổn thương phổi, ngả màu đỏ và gan hóa từ nang trước đến 1/3 nang sau. nhỏ|phải Bệnh lao bò là bệnh truyền nhiễm mãn tính do vi khuẩn lao Mycobacterium tuberculosis gây ra. Đây là bệnh rất nguy hiểm đối với người tiêu dùng khi uống phải sữa ở bò nhiễm bệnh lao. Tùy vào cơ quan bị nhiễm, mức độ nhiễm mà vi khuẩn lao gây ra các biểu hiện khác nhau.

Lao phổi: Vi khuẩn lao xâm nhập và cư trú ở cuống phổi, thanh – khí quản gây cho con vật thường ho khan, ho từng cơn và có nhiều đờm rãi bật ra nhưng đờm thường nằm trong miệng nên bò lại nuốt vào và thường ho vào sáng sớm và chiều tối hay khi thời tiết lạnh bò gầy, lông xơ xác, dựng đứng, ăn kém, nhai lại không đều, sốt nhẹ, lúc sốt lúc không. Lao ruột: Con vật có các triệu chứng ở đường tiêu hóa là ỉa chảy dai dẳng, phân tanh khắm, hết đợt ỉa chảy thì bò lại bị táo bón và bò cũng sẽ gầy dần.

Lao hạch: hạch sưng, cứng, sờ thấy lổn nhổn, to gần bằng quả trứng gà, sờ vào hạch không đau và không dính vào da, cắt hạch ra thấy có nhiều bã đậu. Các hạch hay bị lao là hạch dưới hàm, hạch hầu, hạch tuyến dưới tai, hạch trước đùi và hạch trước vai. Lao vú: bầu vú và núm vú bị biến dạng, sờ vào thấy hạt lao lổn nhổn, chùm hạch vú sưng to, cứng và nổi cục. Lượng sữa giảm. Có thể dùng một số loại kháng sinh, cần kết hợp với trợ sức, trợ lực. Trong thực tế khi phát hiện bò bị nhiễm lao thì cần phải diệt ngay để tránh lây nhiễm sang bò khỏe, sang người và các loại gia súc khácPhản ứng dương tính thử Tubeculin. Các nốt bạch huyết to bất thường và các màu vàng trắng ở phổi Các nốt tổn thương màu vàng nhạt ở gan Các nốt tổn thương nhìn như hạt chân châu trên màng phổi trong xoang ngực.

Bệnh lở mồm long móng: Bệnh lây lan nhanh, Sốt cao 40-41˚C, ăn ít hoặc bỏ ăn, thích uống nước, Ban đầu miệng sưng, mím chặt và phát ra tiếng lép bép, Sau 2-3 ngày xuất hiện các mụn nước ở mồm, móng, chân, vú, Con vật đi lại khó khăn. Các mụn sau khi vỡ ra thấy vết loét màu hồng, nông và dễ bị nhiễm trùng và kế. Đây là bênh do vi rut gây ra nên đến nay vẫn chưa có thuốc điều trị đặc hiệu bệnh này. Vì thế cần định kỳ tiêm phòng vacxin hàng năm là biện pháp tốt nhất và hiệu quả nhất. Sát trùng cho gia súc bằng dung dịch xanh metylen chỗ bị miệng và ở móng theo chiều xoắn ốc từ trong ra ngoài.

Trên thế giới

Ở Israel

nhỏ|phải|Một con bò Hà Lan ở Mỹ Dù bò Holstein vẫn được khuyến cáo nuôi ở những vùng có khí hậu lạnh và ôn hoà với nhiệt độ dưới 22˚C còn những nước nhiệt đới và cận nhiệt đới thì khuyến cáo nuôi bò lai có tỷ lệ máu Holstein không quá 3/4 nhưng Israel đã nuôi thành công bò Holstein thuần chủng. Vào khoảng những năm 1920- 1930 Israel nhập bò đực Friesian từ Hà Lan và Đức về để cải tạo bò địa phương. Năm 1947 nhập bò đực Holstein từ Canada cùng với bò đực con của chúng được sử dụng để gieo tinh nhân tạo. Từ 1950 đến 1962 nhập cả bò đực và hò cái Holstein từ Mỹ. Từ 1963 hầu như toàn bộ bò cái được gieo tinh với những bò đực Holstein sinh ra tại Israel là đực giống địa phương). Từ 1955 bắt đầu đánh giá sức sản xuất sữa của đực giống qua đời sau.

Ngày nay dấu vết bò địa phương không còn nữa mà sau 60 năm tạo giống bò sữa trong điều kiện nóng đã thành công một giống bò Hà Lan Israel thích nghi với điều kiện stress nhiệt của khí hậu nóng. Năng suất sữa bò Holstein của Israel hiện nay cao nhất thế giới, 10500 kg/305 ngày (tại Hà Lan khoảng 7900 kg). Một hợp tác xã Qualia gần biển chết, nơi nhiệt độ mùa hè đạt tới 45-47˚C, một trại bò 276 con đã cho năng suất 11326 kg/ chu kì (năm 1998). Israel đã xuất khẩu tinh dịch bò đực đã đánh giá qua đời sau đến 25 nước trên thế giới. Chủ yếu xuất sang Tây Âu (Tây Ban Nha, Hà Lan, Pháp), sang Đông Âu như Hungary, Bulgari, Nga, sang châu Phi như nam Phi, Zambia, Kenya.. ở châu Á có Philippine, Thái Lan, Việt Nam và Ấn Độ đã nhập tinh bò đực Israel.

Việt Nam

Việt Nam bắt đầu nhập bò Hà Lan từ Cuba. Công tác nhân thuần và lai tạo được tiến hành tại các cơ quan nghiên cứu và nông trường quốc doanh tại Ba Vì và Mộc Châu. Sau đó một số bò thuần Hà Lan từ Mộc Châu chuyển vào Đức Trọng. Trong thời kì bao cấp, số lượng và chất lượng đàn bò thuần và lai Hà Lan có chiều hướng đi xuống. Những năm đầu của thời kì đổi mới, một số bò thuần HF được chuyển về các trại tư nhân. Số lượng bò lai Hà Lan tăng nhanh. Năng suất trung bình của bò lai HF khoảng 10–11 kg ngày. Đa số bò có năng suất dao động quanh 3000 kg/chu kì, có nhiều con cho năng suất rất cao, trên dưới 6000 kg/chu kì.

Năm 2001, Việt Nam đã nhập tổng số 192 con bò giống thuần Hà Lan và Bò Jersey từ Mỹ. Sau khi nuôi tân đáo tại Ba Vì đã đưa về Mộc Châu 49 con Hà Lan, Lâm Đồng 29 con Hà Lan, Ba Vì 21 bò Hà Lan. Sau 6 tháng nuôi tại Việt Nam đã có 19 con chết (chiếm 10%), bò cái cho sữa trung bình 22–23 kg/ngày. Các tỉnh đã nhập bò Hà Lan thuần từ Úc với mục đích sản xuất sữa, kết quả đã nhập về 778 trong đợt 1, sau 3 tháng nuôi (tính cả thời gian nuôi tân đáo) đã chết và loại thải 26 con. Đợt 2 nhập về 714 con, Sau gần 2 tháng nuôi tân đáo có năm con chết do viêm phổi và nhiễm trùng máu, 13 con bị sảy thai. Đợt 3 nhập khoảng 2400, đợt 3 với số lượng 1200 con. Hai đợt nhập bò HF khơi dậy nhiều tranh luận về chất lượng con giống và nhiều vấn đề thuộc về kĩ thuật, quản lý khác.

Bò Hà Lan thuần chủng chỉ chiếm 5-6% tồng đàn, nuôi tập trung ở hai cơ sở giống tại cao nguyên Mộc Châu và Lâm Đồng. Công ty giống bò sữa Mộc Châu có 1800 con trong đó có 900 cái sinh sản, năm 2001 nhập từ Mỹ về thêm 50 con. Công ty giống bò sữa Lâm Đồng có 100 con, nhập thêm từ Mỹ 30 con. Đàn bò lai chiếm 94-95% tổng đàn. Đàn bò lai HF nuôi trong nông hộ và một số cơ sở chăn nuôi của nhà nước có hơn 1.250 con. Năng suất bình quân toàn đàn bò lai Hà Lan ước đạt 3300 kg/chu kì và năng suất bình quân của bò HF thuần ước 4100 kg/chu kì. Trung bình sản lượng sữa thực tế của các phẩm giống bò lai F1, F2 và F3 là 3650 kg, trong đó sản lượng sữa của bò lai F1 là 3671 kg, của bò lai F2 là 3858 kg và của bò lai F3 là 3457. Như vậy sản lượng sữa thực tế của bò lai F2 là cao nhất, tiếp đến là bò lai F1 và thấp nhất là bò lai F3. Khoảng cách lứa đẻ từ 440 - 460ngày.

Tại Thành phố Hồ Chí Minh, tinh bò đực Hà Lan nhập từ nhiều nguồn (từ 9-10 nước khác nhau trên thế giới). Nhà nước không quản lý hết được các nguồn tinh nhập và sử dụng trên thị trường. Tinh của nhiều bò đực có tiềm năng cho sữa thấp. Trên 70% số bò cái được gieo tinh mà không có ghi chép nguồn tinh sử dụng. Tình hình ở các địa phương khác còn tồi tệ hơn, kết quả là đàn bò cái được lai tạo thiếu kiểm soát, chất lượng con giống có nguy cơ giảm thấp. Biểu hiện ra ngoài là bò khó nuôi, bị bệnh tật nhiều, nhất là bệnh về sinh sản như chậm sinh, vô sinh, bệnh về chân, móng và bệnh viêm vú.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Bò Hà Lan** (tên gốc: Bò **Holstein Friz**, đọc là bò Hôn–xtên hoặc **Holstein friezian**- viết tắt **HF**) là một giống bò sữa có nguồn gốc từ Hà Lan gần 2.000 năm trước đây. Bắt
**Hà Lan** ( ) là một quốc gia tại Tây Âu. Đây là quốc gia cấu thành chủ yếu của Vương quốc Hà Lan, và còn bao gồm ba lãnh thổ đảo tại Caribe (Bonaire,
Hà Lan, bất chấp diện tích và dân số thực sự khiêm tốn, có một phần đóng góp đáng kể trong quá trình hình thành nên xã hội hiện đại ngày nay. Đất nước Hà
**Đế quốc Hà Lan** () bao gồm các vùng lãnh thổ ở nước ngoài thuộc tầm kiểm soát của Hà Lan từ thế kỷ 17 đến những năm 1950. Người Hà Lan đã theo sau
**Trận Hà Lan** () là một phần trong "Kế hoạch Vàng" () - cuộc xâm lăng của Đức Quốc xã vào Vùng đất thấp (Bỉ, Luxembourg, Hà Lan) và Pháp trong chiến tranh thế giới
**Formosa thuộc Hà Lan** đề cập đến thời kỳ chính quyền thuộc địa Hà Lan tồn tại ở Formosa (nay gọi là Đài Loan) từ năm 1624 đến 1662. Trong bối cảnh thời đại khám
**Brasil thuộc Hà Lan**, hay còn gọi là **Tân Hà Lan**, là phần phía bắc của thuộc địa Bồ Đào Nha ở Brasil, cai quản bởi Cộng hòa Hà Lan trong quá trình Hà Lan
thumb|Chợ pho mát ở [[Gouda]] thumb|[[Rijsttafel nhỏ tại một bữa tiệc ở Hà Lan]] **Ẩm thực Hà Lan** () hình thành từ truyền thống nấu ăn của người Hà Lan. Ẩm thực của quốc gia
**Xung đột Công ty Đông Ấn Hà Lan với Đàng Trong** là cuộc xung đột giữa xứ Đàng Trong do các chúa Nguyễn cai trị thời chúa Nguyễn Phúc Lan với Công ty Đông Ấn
right|thumb|Xưởng đóng tàu của công ty Đông Ấn tại [[Amsterdam, Hà Lan.]] Cổ phiếu ngày 26/9/1606 của công ty Đông Ấn Hà Lan **Công ty Đông Ấn Hà Lan** ( hay **VOC**, có nghĩa là:
**Tiếng Hà Lan** hay **tiếng Hòa Lan** () là một ngôn ngữ thuộc nhánh phía Tây của Nhóm ngôn ngữ German, được nói hàng ngày như tiếng mẹ đẻ bởi khoảng 23 triệu người tại
**Wilhelmina** (; _Wilhelmina Helena Pauline Maria_; 31 tháng 8 năm 1880 – 28 tháng 11 năm 1962) là Nữ vương của Hà Lan từ năm 1890 cho đến khi thoái vị vào năm 1948. Bà
**Nữ vương Juliana** (_Juliana Louise Emma Marie Wilhelmina_; 30 tháng 4 năm 1909 – 20 tháng 3 năm 2004) là Nữ vương Hà Lan từ năm 1948 cho đến khi bà thoái vị năm 1980.
**Đông Ấn Hà Lan** (; ) từng là một thuộc địa của Hà Lan với lãnh thổ chủ yếu bao gồm lãnh thổ của nhà nước hiện đại Indonesia. Đông Ấn Hà Lan được thành
**Chiến dịch bình định Đài Loan của Hà Lan** là một chuỗi các hành động quân sự và ngoại giao do chính quyền thuộc địa Hà Lan tiến hành vào các năm 1635 và 1636
**Đông Ấn Hà Lan thuộc Nhật Bản** bắt đầu vào năm 1942 và kết thúc vào ngày 17 tháng 8 năm 1945 cùng với tuyên ngôn độc lập Indonesia của Sukarno và M. Hatta thay
Trong tháng 3 năm 2017, **Hà Lan và Thổ Nhĩ Kỳ dính líu tới một sự cố ngoại giao**, bị kích hoạt bởi các lệnh giới hạn đi lại của chính quyền Hà Lan đối
Tại Hà Lan, hôn nhân cùng giới (tiếng Hà Lan: Huwelijk tussen personen van gelijk geslacht hoặc thường là homohuwelijk) đã được hợp pháp kể từ ngày 1 tháng 4 năm 2001. Hà Lan là
**Các tỉnh Thống nhất Hà Lan**, hoặc **Các tỉnh thống nhất**, **Các tỉnh liên hiệp** (tiếng Hà Lan: _Republiek der Zeven Verenigde Nederlanden_) hay **Cộng hoà Hà Lan Thống nhất**, **Cộng hoà Bảy Tỉnh Thống
phải|_Một cái nhìn của Chinsura khu định cư Hà Lan tại Bengal_ (1787). **Ấn Độ Hà Lan** bao gồm các khu định cư và trụ sở giao dịch của Công ty Đông Ấn Hà Lan
**Phòng tuyến nước của Hà Lan** ( là một loạt các hệ thống phòng thủ nước được Maurits van Oranje hình thành vào đầu thế kỷ 17 và được người anh em cùng cha khác
**Chiến tranh Anh-Hà Lan** (tiếng Anh: _the Anglo-Dutch Wars_, tiếng Hà Lan: _Engels–Nederlandse Oorlogen_ hoặc _Engelse Zeeoorlogen_) là một loạt các cuộc chiến giữa Anh và Các tỉnh thống nhất diễn ra trong hai thế
**Hội nghị bàn tròn Hà Lan–Indonesia** được tổ chức tại Den Haag từ ngày 23 tháng 8 – 2 tháng 11 năm 1949, giữa các đại biểu của Hà Lan, nước Cộng hòa Indonesia và
**Thủ tướng Hà Lan** () là người đứng đầu cơ quan hành pháp của Chính phủ Hà Lan với tư cách là chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Thủ tướng là người đứng đầu
**Đấu giá Hà Lan** hay **đấu giá giảm dần** là một hình thức đấu giá mà trong cuộc đấu giá này, một món hàng được chào bán với một mức giá rất cao. Giá ban
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Hà Lan** () là đội tuyển đại diện cho Hà Lan trên bình diện quốc tế kể từ năm 1905. Đội tuyển quốc gia được kiểm soát bởi Hiệp
**Nhà nước Hà Lan tranh kiện pháp lý với Tổ chức Urgenda** (; ) là một vụ kiện pháp lý tại Tòa án tối cao Hà Lan năm 2019 liên quan đến những nỗ lực
**Caribê thuộc Hà Lan** (, tiếng Papiamento: Hulanda Karibe) là tên gọi chung cho ba hòn đảo tự trị thuộc Hà Lan tại khu vực biển Caribe ở châu Mỹ là Bonaire, Sint Eustatius và
**Vương nữ Catharina-Amalia** (**Catharina-Amalia Beatrix Carmen Victoria**; sinh ngày 7 tháng 12 năm 2003) là con trưởng của vua Willem-Alexander và Vương hậu Máxima của Hà Lan. Cô hiện đang đứng đầu trong dòng kế
**Tân Hà Lan** (; hay ) là một thuộc địa của Cộng hòa Hà Lan vào thế kỷ 17 nằm trên bờ biển phía đông của Bắc Mỹ. Lãnh thổ được tuyên bố kéo dài
**Margriet Francisca của Hà Lan, Vương nữ Oranje-Nassau, Nữ Thân vương xứ Lippe-Biesterfeld** (; sinh ngày 19 tháng 1 năm 1943) là con gái thứ ba của Nữ vương Juliana và Vương tế Bernhard. Với
**Maria Christina, Vương nữ Hà Lan, Vương nữ của Oranje-Nassau, Nữ Thân vương xứ Lippe-Biesterfeld** (; sinh ngày 18 tháng 2 năm 1947 - 16 tháng 8 năm 2019) là con gái út của Nữ
**Người Canada gốc Hà Lan** là người Canada có tổ tiên toàn bộ hoặc một phần từ người Hà Lan. Theo Điều tra dân số năm 2016, có 1.035.965 người Canada gốc Hà Lan, bao
Trong kinh tế học, **căn bệnh Hà Lan** là mối quan hệ nhân quả rõ ràng giữa sự gia tăng phát triển kinh tế của một lĩnh vực cụ thể (ví dụ tài nguyên thiên
**Người Hà Lan** (tiếng Hà Lan: _Nederlanders_) là dân tộc chủ yếu ở Hà Lan . Họ chia sẻ một nền văn hóa chung và nói tiếng Hà Lan. Người Hà Lan, hoặc con cháu
**Willem III** (tiếng Hà Lan: _Willem Alexander Paul Frederik Lodewijk_, tiếng Anh: _William Alexander Paul Frederick Louis_; 19 tháng 2 năm 1817 - 23 tháng 11 năm 1890) là Vua của Hà Lan và Đại
**Người Mỹ gốc Hà Lan** (, ) là một thuật ngữ rất dễ nhầm lẫn với người Hà Lan PennsyIvannia vậy ta không nên nhầm giữa hai thuật ngữ này với nhau, là công dân
**Thư viện Hoàng gia Hà Lan** (tiếng Hà Lan: **Koninklijke Bibliotheek** hoặc **KB**; _Thư viện Hoàng gia,_ tiếng Anh: **Royal Library of the Netherlands**) có trụ sở tại The Hague và được thành lập vào
**Lịch sử của Hà Lan** là một lịch sử của những người đi biển phát triển mạnh trên một đồng bằng châu thổ thấp trên Biển Bắc ở Tây Bắc Châu Âu. Các ghi chép
nhỏ| Như các logo trên cửa sổ hiển thị, RKD chia sẻ cùng tòa nhà (nằm gần [[Den Haag trung tâm|Den Haag Centraal) với (LM), Huygens ING, Viện âm nhạc Hà Lan (NMI) và Koninklijke
Danh hiệu **Cầu thủ bóng đá Hà Lan của năm** (**_Voetballer van het Jaar_**) đã được trao ở Hà Lan từ năm 1984. Giải thưởng này được quyết định thông qua một cuộc bỏ phiếu
**Wikipedia tiếng Hà Lan** () là phiên bản tiếng Hà Lan của dự án Wikipedia, với bài viết. Phiên bản này đạt mốc 1.000.000 bài viết vào ngày 17 tháng 12 năm 2011, và hiện
**Beatrix của Hà Lan** (**Beatrix Wilhelmina Armgard**, sinh ngày 31 tháng 1 năm 1938) là Nữ vương của Vương quốc Hà Lan bao gồm Hà Lan, Curaçao, Sint Maarten và Aruba. Bà là con trưởng
**Thời kỳ hoàng kim Hà Lan** là một thời kỳ phát triển rực rỡ trong lịch sử Hà Lan. Thời kỳ này trải dài trong thế kỷ 17. Hà Lan trong thời kỳ này nằm
phải|Mặt tiền cuốn _"The Flying Dutchman"_ của Edward Fitzball Truyền thuyết về **_người Hà Lan bay_** (tiếng Anh: _The Flying Dutchman_; tiếng Hà Lan: _De Vliegende Hollander_) liên quan đến một con tàu ma bí
**Cách mạng Hà Lan** (1566/1568 – 1648) là cuộc khởi nghĩa của nhân dân Vùng đất thấp (Nê-đéc-lan) chống lại sự cai trị của Felipe II của Tây Ban Nha. Đây cũng là dấu mốc
**Louise của Hà Lan** (; tên đầy đủ: _Wilhelmina Frederika Alexandrine Anna Louise_; 5 tháng 8 năm 1828 – 30 tháng 3 năm 1871), hay còn được gọi là **Lovisa**, là Vương hậu Thụy Điển
**Willem I** (tiếng Hà Lan: _Willem Frederik_; 24 tháng 8 năm 1772 – 12 tháng 12 năm 1843) là vua của Hà Lan, kiêm Đại công tước của Luxembourg từ năm 1815 cho đến khi
thumb|The [[Bộ ba năm 1813|Bộ ba lên nắm quyền năm 1813 (tranh của Jan Willem Pieneman)]] **Quý tộc Hà Lan** (tiếng Hà Lan: _Nederlandse adel_; tiếng Pháp: _Noblesse des Pays-Bas_; tiếng Anh: _Dutch nobility_) là
**Giải đua ô tô Công thức 1 Hà Lan 2023** (tên chính thức là **_Formula 1 Heineken Dutch Grand Prix 2023_**) là một chặng đua Công thức 1 được tổ chức vào ngày 27 tháng