✨Vụ án Tống Văn Sơ
Vụ án Tống Văn Sơ là sự kiện liên quan đến Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) khi ông bị bắt giam ở Hồng Kông từ ngày 6 tháng 6 năm 1931 đến ngày 22 tháng 1 năm 1933. Trong vụ án này, nhóm luật sư dẫn đầu bởi Francis Henry Loseby đứng ra bào chữa cho Nguyễn Ái Quốc nhằm giúp ông không bị dẫn độ về Đông Dương thuộc Pháp. Vụ án cho thấy vai trò của Quốc tế Cộng sản, thông qua tổ chức Cứu tế Đỏ Quốc tế, trong việc hỗ trợ về mặt pháp lý và tuyên truyền, cũng như những cảm tình viên Quốc tế Cộng sản trong hệ thống tư pháp Anh, như Richard Stafford Cripps, đã giúp Nguyễn Ái Quốc thoát khỏi nhà tù Hồng Kông an toàn.
Trong giai đoạn 1930–31, Nguyễn Ái Quốc hoạt động chủ yếu tại Hồng Kông dưới tên giả Tống Văn Sơ (tiếng Anh phiên âm từ tiếng Quảng Đông: Sung Man Cho, chữ Hán: 宋文初). Trong thời gian này, mạng lưới tình báo Pháp–Anh tăng cường hoạt động nhằm ngăn chặn sự bành trướng của Quốc tế Cộng sản. Sau khi Joseph Ducroux, đặc phái viên của Quốc tế Cộng sản, bị Sở Liêm phóng Pháp đọc trộm thư từ liên lạc, tung tích của Nguyễn Ái Quốc cũng bị bại lộ. Ông bị cảnh sát thuộc địa tại Hồng Kông bắt giam khi đang trú tại Cửu Long. Chính quyền Hồng Kông dự định trục xuất ông về Đông Dương, điều này dẫn đến khả năng ông sẽ bị chính quyền Pháp bắt giữ và xét xử ngay khi rời khỏi Hồng Kông. Luật sư Francis Henry Loseby đã đệ đơn kiện Tổng đốc các trại giam Hồng Kông lên Toà án Tối cao Hồng Kông. Vụ án được xét xử lần đầu từ ngày 14 tháng 8 năm 1931 đến ngày 11 tháng 9 năm 1931 và Nguyễn Ái Quốc bị tòa tuyên bố trục xuất. Nhóm luật sư đại diện Nguyễn Ái Quốc tiếp tục kháng án lên Ủy ban Tư pháp thuộc Cơ mật viện Vương quốc Anh. Vụ án được dàn xếp ngoài tòa nên phiên tòa tranh tụng phúc thẩm không được diễn ra. Cơ mật viện Vương quốc Anh tuyên bố trục xuất Nguyễn Ái Quốc với điều kiện đảm bảo ông không bị bắt giữ bởi Pháp sau khi rời khỏi Hồng Kông. Sau khi bị trục xuất lần đầu tiên ngày 6 tháng 1 năm 1933, ông bị bắt lại ở Singapore và trở lại Hồng Kông. Nhờ sự giúp đỡ của Loseby và Thống đốc Hồng Kông, ông chính thức rời khỏi Hồng Kông vào ngày 22 tháng 1 năm 1933 để đến Liên Xô tiếp tục hoạt động.
Bối cảnh
trái|Chân dung Nguyễn Ái Quốc năm 1921 Trong giai đoạn từ 1928 đến 1930, Nguyễn Ái Quốc hoạt động cách mạng bí mật tại Thái Lan. Đầu năm 1930, theo yêu cầu của Quốc tế Cộng sản, ông rời Thái Lan đến Hồng Kông. Tại đây, với danh nghĩa Phái viên Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc cùng với 6 người gồm Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh, Châu Văn Liêm và Nguyễn Thiệu đã tiến hành Hội nghị hợp nhất 3 đảng: An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (đại diện không kịp có mặt tại hội nghị) thành một đảng, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tuy nhiên, Quốc tế Cộng sản chủ trương chỉ thành lập ở Đông Dương một đảng duy nhất, thay vì riêng rẽ từng nước. Do vậy, tại Hội nghị lần thứ nhất của Ban chấp hành Trung ương Đảng ở Hồng Kông tháng 10 năm 1930, tên của đảng được đổi thành Đảng Cộng sản Đông Dương, với Trần Phú làm Tổng bí thư đầu tiên.
Trong giai đoạn 1930–1931, những cuộc nổi dậy trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh do Đảng cộng sản lãnh đạo bị chính quyền thực dân Pháp đàn áp dữ dội. Những thành viên lãnh đạo như Nguyễn Đức Cảnh, Nguyễn Phong Sắc, Lê Mao… bị Pháp truy bắt và tử hình. Nguyễn Ái Quốc bị tuyên án tử hình vắng mặt tại Tòa đại hình Vinh trước đó vào tháng 10 năm 1929 và lần hai vào tháng 2 năm 1930.
Tháng 4 năm 1930, Nguyễn Ái Quốc đến Thái Lan, Singapore, và Malaysia hoạt động thời gian ngắn. Trong thời gian ở Singapore, ông được Tổng lãnh sự Trung Quốc ở Singapore cấp hộ chiếu số B.98, mang tên "Tống Văn Sơ", quốc tịch Trung Quốc. Tháng 5 năm 1930, ông trở về Hồng Kông.
Diễn biến
Bị bắt tại Cửu Long
nhỏ|260x260px|Hồng Kông vào thập niên 1930|thế=
Khoảng đầu thập niên 1930, nhằm chống lại sự bành trướng của Quốc tế Cộng sản, mạng lưới tình báo Anh-Pháp tăng cường hoạt động tại Châu Á, đặc biệt khu vực Đông Nam Á. Một đặc phái viên của Quốc tế Cộng sản, Joseph Ducroux
Từ những sổ tay và thư từ của Ducroux, tình báo Anh lần ra thông tin những thành viên Quốc tế Cộng sản đang hoạt động tại Trung Quốc và Hồng Kông. Cấp trên của Lefranc kiêm Thư ký Chi nhánh Bộ Phương Đông (Bộ Liên lạc Quốc tế) Hilaire Noulens bị bắt tại Thượng Hải (Trung Quốc) vào tháng 6 năm 1931. Ngoài ra tình báo Anh còn phát hiện địa chỉ Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông. Vào lúc 2:00 sáng ngày 6 tháng 6 năm 1931, tại nhà số 186 phố Tam Kung, Cửu Long, một tốp cảnh sát ập vào bắt giữ Nguyễn Ái Quốc khi đó đang ở cùng Lý Phương Thuận (tên tiếng Anh: Li Sam hoặc Ly Ung Thuan, vợ của Hồ Tùng Mậu). Thời điểm bị bắt, Nguyễn Ái Quốc mang giấy tờ tùy thân tên "Tống Văn Sơ", quốc tịch Trung Quốc. Toàn quyền Pháp tại Hà Nội, René Robin, nhận được tin báo về việc bắt được Nguyễn Ái Quốc và đề nghị chính quyền Anh tại Hồng Kông thực hiện dẫn độ về Đông Dương để xét xử. Đổi lại, Pháp hứa sẽ giao cho phía Anh số tù nhân là đảng viên cộng sản Ấn Độ và Myanmar bị bắt trên đất thuộc Pháp. Nhưng vì giữa Anh và Pháp lúc đó không có hiệp ước dẫn độ riêng đối với các phạm nhân chính trị, nên chính quyền thuộc địa Anh ở Hồng Kông chỉ có thể tìm cách trục xuất Nguyễn Ái Quốc ra khỏi lãnh thổ Hồng Kông. Sau 6 ngày tạm giam, chính quyền Hồng Kông ra quyết định trục xuất Nguyễn Ái Quốc: ông sẽ bị áp giải với lính canh trên một chiếc tàu của Pháp đến một điểm được định trước, cụ thể là Việt Nam (nơi sinh của ông) — đây là kết quả thỏa thuận ngầm giữa họ và Tổng lãnh sự Pháp tại Hồng Kông, vì tòa án Vinh ở tỉnh Nghệ An đã kết án tử hình vắng mặt Nguyễn Ái Quốc vào tháng 10 năm 1929.
Ngày 19 tháng 6 năm 1931, dưới sự hậu thuẫn thông tin từ Quốc tế Cộng sản, tờ báo Nhân Đạo thuộc Đảng Cộng sản Pháp và các tờ báo thiên tả khác đồng loạt đăng tin về vụ bắt giữ Tống Văn Sơ; qua ngày 22 và 23 tháng 6 có thêm hai tờ báo lớn ở Hồng Kông là Hương Cảng Điện Báo (Hong Kong Telegraph) và Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng (South China Morning Post). Ngày 23 tháng 6, báo The Times (Anh) cáo buộc Nguyễn Ái Quốc bị chính quyền Hồng Kông bắt theo yêu cầu của Pháp và phía Pháp đề nghị dẫn độ. Nếu đối chiếu với quy định thời đó thì cuộc thẩm vấn này đã trái luật, vì Tống Văn Sơ bị bắt ngày 6 tháng 6 nhưng mãi đến hơn một tháng sau thì nhà chức trách mới thẩm vấn ông. Hơn nữa, người lấy cung không phải là người của tòa án mà là một người Anh làm việc tại Vụ Hoa kiều Hồng Kông.
Thống đốc Hồng Kông giai đoạn 1930–1935, William Peel|thế=
Để cứu Tống Văn Sơ, tổ chức Cứu tế Đỏ Quốc tế, một cơ quan thuộc Quốc tế Cộng sản, đã thuê luật sư Francis Henry Loseby để hỗ trợ pháp lý. Loseby cảnh báo với chính quyền Hồng Kông rằng nếu bị trục xuất, Tống Văn Sơ sẽ bị Pháp bắt giữ ngay khi vừa rời khỏi đất Hồng Kông để đưa về Đông Dương xét xử; đồng thời yêu cầu chính quyền Hồng Kông phải thả Tống Văn Sơ ra và cho phép Tống tự do đến nơi mà anh muốn.
Thống đốc Hồng Kông William Peel đành phải miễn cưỡng chấp thuận yêu cầu của luật sư Loseby. Trong bức điện tín báo cáo với Bộ Thuộc địa Anh tại London, Thống đốc Peel đề nghị nên thả tự do Tống Văn Sơ với điều kiện Tống phải rời Hồng Kông trong vòng 7 ngày. Theo ông, việc trục xuất Tống Văn Sơ về Đông Dương sẽ giống như một vụ dẫn độ trá hình và đi ngược lại những nguyên tắc công pháp của Anh quốc. Tuy nhiên, phía chính quyền Pháp cũng quyết tâm thực hiện kế hoạch dẫn độ Tống Văn Sơ. Đại sứ Pháp tại London, Jules Cambon, bày tỏ sự quan điểm với chính phủ Anh rằng: "Tống Văn Sơ (Nguyễn Ái Quốc) là một 'mối hiểm họa trên bình diện quốc tế' và đề nghị không được thả tự do". Bộ Ngoại giao Anh quốc (Foreign Office) muốn làm hài lòng phía chính phủ Pháp vì hai bên sẽ cùng hợp tác trong những hoạt động đàn áp nổi dậy trong khu vực Châu Á, nên đề nghị phải trục xuất Tống về Việt Nam như ý Pháp mong muốn. Do vậy, Thống đốc Hồng Kông đành phải tống đạt lệnh trục xuất thứ hai cho Tống Văn Sơ.— nhằm đưa vụ bắt giữ Tống Văn Sơ ra xét xử phiên tòa công khai. Loseby thuê hai luật sư tranh tụng (barrister) để tham gia vụ kiện. Nhóm luật sư do Loseby dẫn đầu cùng với 2 luật sư tranh tụng F. C. Jenkin và A. M. L. Soares đứng ra bảo vệ bên nguyên đơn. Luật sư Jenkin phản đối lệnh trục xuất thứ hai này của Thống đốc Hồng Kông. Jenkin gọi lệnh trục xuất này là "một sự lạm dụng quyền hành pháp" của chính quyền Hồng Kông.
Ngày 11 tháng 9 năm 1931, Toà án Tối cao Hồng Kông xác nhận tính hợp pháp cho lệnh trục xuất thứ hai của chính quyền Hồng Kông. Tòa cho rằng, tuy lệnh trục xuất này có thể liên quan đến việc dẫn độ nếu xét trên phương diện chính trị, nhưng hoàn toàn không vi phạm luật Anh quốc. Lệnh bảo thân Habeas Corpus của Tống Văn Sơ bị tòa án bác và Tống lại đứng trước nguy cơ bị trục xuất đến Đông Dương; trong khi đó, Lý Phương Thuận được thả tự do và được phép rời Hồng Kông.
Kháng án lên Cơ mật viện Vương quốc Anh
nhỏ|400x400px|Ủy ban Tư pháp Cơ mật viện Anh quốc tại London (Anh)|thế= Phía luật sư của Tống Văn Sơ ngay lập tức kháng án đến Ủy ban Tư pháp thuộc Viện Cơ mật Vương quốc Anh, nơi có thẩm quyền tối cao đối với các vụ án xảy ra tại các xứ thuộc địa của Anh. Họ cho rằng lệnh trục xuất Tống Văn Sơ không có giá trị pháp lý theo luật Hồng Kông và đây là "một sự lạm dụng quyền hành pháp" của chính quyền Hồng Kông.
Vì lịch làm việc của Viện Cơ mật chỉ có thể xử vụ việc của Tống Văn Sơ sớm nhất là đến tháng 11 năm 1932, tức hơn một năm sau đó). Thời điểm đó, sức khỏe ông suy nhược, thể trạng tiều tụy do mắc bệnh lao phổi. Hoàng thân Cường Để đã gửi thư cho Tống Văn Sơ khi biết ông bệnh nặng và còn gửi 300 yên để hỗ trợ viện phí.
Đến đầu năm 1932, đơn kháng cáo của Tống Văn Sơ được đưa ra xét xử tại Ủy ban Luật pháp thuộc Viện Cơ mật Hoàng gia Anh. Lần này, luật sư đại diện Tống Văn Sơ là Denis Nowell Pritt —một luật sư danh tiếng người Anh thuộc công ty luật "Messrs Light & Fulton", thành viên Công Đảng Anh, quan điểm thiên tả cực đoan và có xu hướng ủng hộ Liên Xô. Còn đại diện Cơ mật viện là Richard Stafford Cripps và Bộ trưởng Bộ Tài chính Anh.
Sau khi tìm hiểu vụ kiện, Cripps cho rằng đơn kháng cáo của nguyên đơn đối với lệnh trục xuất từ chính quyền Hồng Kông sẽ được ủng hộ tại tòa Cơ mật viện và Tống Văn Sơ sẽ được thả tự do. Theo nhà nghiên cứu Dennis Duncanson và chuyên viên pháp lý của Bộ Thuộc địa Anh Harold Bushe, Cripps có xu hướng thiên về quan điểm chính trị của bên nguyên đơn (Tống Văn Sơ) nên đã tìm cớ từ chối tranh tụng trước Viện Cơ mật. Ngày 27 tháng 6 năm 1932, Cripps thay mặt Bộ Thuộc địa và chính quyền Hồng Kông, dàn xếp ngoài tòa (out-of-court arrangement) với Luật sư Pritt. Sau đó, phía nguyên đơn của Pritt chủ động rút đơn kháng án với điều kiện kết quả phải có lợi cho Tống Văn Sơ. Phiên tranh tụng giữa hai bên, do vậy, chưa bao giờ diễn ra trước tòa Cơ mật viện.
Ngày 21 tháng 7 năm 1932, vì bên nguyên đơn đã rút kháng án, Cơ mật viện đưa ra phán quyết với 4 điều khoản. Thứ nhất, bỏ việc chỉ định "áp giải bằng tàu biển" trong lệnh trục xuất. Thứ hai, sau khi trục xuất, nơi đến không được là lãnh thổ Pháp, thuộc địa bảo hộ của Pháp, hoặc đi bằng tàu biển của Pháp. Thứ ba, chính quyền Hồng Kông sẽ nỗ lực tối đa đảm bảo nguyên đơn được trục xuất đến nơi mà nguyên đơn mong muốn. Cuối cùng, chính quyền Hồng Kông sẽ góp 250 bảng Anh
Thoát khỏi nhà tù Hồng Kông
Sau phiên kháng cáo tại Cơ mật viện, Nguyễn Ái Quốc có thể được thả tự do. Nhưng ông lo sợ sẽ bị chính quyền Pháp bắt khi đang trên đường đến London. Do tàu Liên Xô không cập cảng Hồng Kông được, Luật sư Loseby yêu cầu chính quyền Anh quốc hỗ trợ một địa điểm tị nạn tạm thời thuộc lãnh thổ Anh cho Nguyễn Ái Quốc. Vì lo sợ sẽ bị chính quyền Pháp bắt khi đi ngang kênh đào Suez và thành phố Port Said (Ai Cập), Nguyễn Ái Quốc yêu cầu được tị nạn tại Úc hoặc Nam Phi trước khi đến Châu Âu. Hai nước này đều từ chối. Nguyễn Ái Quốc quyết định sẽ đến Moskva. Tuy nhiên, nếu muốn đến Moskva từ Hồng Kông, phải chuyển tàu tại Thượng Hải hoặc Singapore, rồi cập cảng Vladivostok, thành phố biển phía Đông nước Nga. Nguyễn Ái Quốc chọn đi Singapore. Cảnh sát thuộc địa tại bán đảo Malay (Singapore ngày nay) đã từ chối cho Nguyễn Ái Quốc nhập cảnh; do vậy, đến ngày 15 tháng 1 năm 1933, Nguyễn Ái Quốc buộc phải đi tàu trở lại Hồng Kông trên chiếc tàu Ho Sang. Khi tàu cập cảng Hồng Kông ngày 19 tháng 1 năm 1933, cảnh sát Hồng Kông bắt Nguyễn Ái Quốc lần hai vì vi phạm lệnh của tòa (tức là cấm trở lại Hồng Kông trong vòng 10 năm).
Khi nghe tin Nguyễn Ái Quốc bị bắt lần hai, Loseby khẩn cầu Thống đốc Hồng Kông William Peel can thiệp và đứng ra bảo lãnh cho Nguyễn Ái Quốc. Thống đốc Peel ra lệnh thả Nguyễn Ái Quốc và yêu cầu ông phải rời khỏi Hồng Kông trong vòng 3 ngày. Để tránh tai mắt của mật thám Pháp, lần này Loseby cho ông ở tại một địa điểm bí mật tại Tân Giới, đồng thời tìm một hướng khác để thoát khỏi Hồng Kông. Lung Ting-chang, một thư ký của Loseby, cũng được sắp xếp để đi cùng Nguyễn Ái Quốc. Nguyễn Ái Quốc bí mật rời Hồng Kông trên một chiếc thuyền nhỏ, được sắp xếp bởi chính quyền Hồng Kông và thống đốc Peel, vượt ra eo biển Lý Ngư Môn (Lei Yue Mun) để đến chiếc tàu lớn An Huy (An Hui) đang chờ sẵn ngoài khơi. Sau đó, Nguyễn Ái Quốc đã chính thức rời Hồng Kông trên tàu An Huy để đến Hạ Môn (tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc), từ đó đi Thượng Hải, Vladivostok và Moskva.
Tranh cãi
Phát biểu của luật sư Loseby
Theo nguồn từ Đảng Cộng sản Việt Nam, ấn tượng của luật sư Loseby khi gặp Nguyễn Ái Quốc là "một người thanh niên Việt Nam gầy, xanh, song vẻ cương nghị, sự thông minh trong từng câu nói bằng tiếng Anh và đôi mắt sáng", ngoài ra còn nói với Nguyễn Ái Quốc rằng: "Tôi nhận giúp anh vì danh dự chứ không phải vì tiền".
Tuy nhiên, không có học giả phương Tây nào xác nhận câu nói trên. Theo các sử gia phương Tây, tổ chức Cứu tế Đỏ Quốc tế (MOPR) đã sắp xếp và trả thù lao cho Loseby.
Người liên hệ luật sư Loseby
Theo nguồn của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Tùng Mậu là người đã đến gặp luật sư Loseby nhờ giúp đỡ.
Tuy nhiên, theo nhiều nhà nghiên cứu khác, thông tin về cái chết của Nguyễn Ái Quốc chỉ là tin giả. Theo các nhà nghiên cứu như Duiker Báo Nhân Đạo (Pháp) số 12292, ra ngày 9 tháng 8 năm 1932 với nội dung: "Nguyễn Ái Quốc, sáng lập viên kiên cường của Đảng cộng sản Đông Dương đã chết vì bệnh lao phổi trong tù". Sau khi được thả ra ngày 28 tháng 12 năm 1932, để tránh sự theo dõi của mật thám Pháp, Loseby cũng loan tin rằng Nguyễn Ái Quốc đã chết vì bệnh lao phổi trong bệnh viện. Một số sinh viên người Việt ở Moskva thời điểm đó còn tổ chức lễ tưởng niệm khi nghe tin ông Nguyễn qua đời; một đại diện của Quốc tế Cộng sản đọc điếu văn trong lễ tưởng niệm này. Tuy nhiên, thông tin về cái chết của Nguyễn Ái Quốc chỉ nhằm tránh sự theo dõi của chính quyền Pháp đối với ông.
Đôi lúc ông rơi vào tuyệt vọng rằng ông sẽ không bao giờ được thả. Ông cho biết, thú tiêu khiển của ông khi trong tù là bắt rệp hoặc đọc kinh thánh Cơ Đốc.
Tuy nhiên, theo Duiker, khi ở bệnh xá nhà tù Bowen Road (sau này là Bệnh viện Quân y Anh quốc), ông Hồ được ở trong điều kiện thoải mái và thường có khách viếng thăm gồm chính khách và rất nhiều người Châu Âu. Luật sư Frank Loseby thậm chí còn đặt thêm bữa ăn từ một nhà hàng địa phương gần đó mang vào cho ông. Bộ phim được chỉ đạo bởi đạo diễn Khắc Lợi. Khi đối chiếu với các sự kiện ngoài đời thật, tác phẩm đã vấp phải một số sai phạm khách quan, ví dụ như việc Lê Duy Điếm (người đã mất ở Xiêm vào năm 1929) có mặt ở Hồng Kông để giúp Nguyễn Ái Quốc, hay một tướng cướp già đánh xe ngựa đến cứu ông.