✨Vụ án Tống Văn Sơ

Vụ án Tống Văn Sơ

Vụ án Tống Văn Sơ là sự kiện liên quan đến Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) khi ông bị bắt giam ở Hồng Kông từ ngày 6 tháng 6 năm 1931 đến ngày 22 tháng 1 năm 1933. Trong vụ án này, nhóm luật sư dẫn đầu bởi Francis Henry Loseby đứng ra bào chữa cho Nguyễn Ái Quốc nhằm giúp ông không bị dẫn độ về Đông Dương thuộc Pháp. Vụ án cho thấy vai trò của Quốc tế Cộng sản, thông qua tổ chức Cứu tế Đỏ Quốc tế, trong việc hỗ trợ về mặt pháp lý và tuyên truyền, cũng như những cảm tình viên Quốc tế Cộng sản trong hệ thống tư pháp Anh, như Richard Stafford Cripps, đã giúp Nguyễn Ái Quốc thoát khỏi nhà tù Hồng Kông an toàn.

Trong giai đoạn 1930–31, Nguyễn Ái Quốc hoạt động chủ yếu tại Hồng Kông dưới tên giả Tống Văn Sơ (tiếng Anh phiên âm từ tiếng Quảng Đông: Sung Man Cho, chữ Hán: 宋文初). Trong thời gian này, mạng lưới tình báo Pháp–Anh tăng cường hoạt động nhằm ngăn chặn sự bành trướng của Quốc tế Cộng sản. Sau khi Joseph Ducroux, đặc phái viên của Quốc tế Cộng sản, bị Sở Liêm phóng Pháp đọc trộm thư từ liên lạc, tung tích của Nguyễn Ái Quốc cũng bị bại lộ. Ông bị cảnh sát thuộc địa tại Hồng Kông bắt giam khi đang trú tại Cửu Long. Chính quyền Hồng Kông dự định trục xuất ông về Đông Dương, điều này dẫn đến khả năng ông sẽ bị chính quyền Pháp bắt giữ và xét xử ngay khi rời khỏi Hồng Kông. Luật sư Francis Henry Loseby đã đệ đơn kiện Tổng đốc các trại giam Hồng Kông lên Toà án Tối cao Hồng Kông. Vụ án được xét xử lần đầu từ ngày 14 tháng 8 năm 1931 đến ngày 11 tháng 9 năm 1931 và Nguyễn Ái Quốc bị tòa tuyên bố trục xuất. Nhóm luật sư đại diện Nguyễn Ái Quốc tiếp tục kháng án lên Ủy ban Tư pháp thuộc Cơ mật viện Vương quốc Anh. Vụ án được dàn xếp ngoài tòa nên phiên tòa tranh tụng phúc thẩm không được diễn ra. Cơ mật viện Vương quốc Anh tuyên bố trục xuất Nguyễn Ái Quốc với điều kiện đảm bảo ông không bị bắt giữ bởi Pháp sau khi rời khỏi Hồng Kông. Sau khi bị trục xuất lần đầu tiên ngày 6 tháng 1 năm 1933, ông bị bắt lại ở Singapore và trở lại Hồng Kông. Nhờ sự giúp đỡ của Loseby và Thống đốc Hồng Kông, ông chính thức rời khỏi Hồng Kông vào ngày 22 tháng 1 năm 1933 để đến Liên Xô tiếp tục hoạt động.

Bối cảnh

trái|Chân dung Nguyễn Ái Quốc năm 1921 Trong giai đoạn từ 1928 đến 1930, Nguyễn Ái Quốc hoạt động cách mạng bí mật tại Thái Lan. Đầu năm 1930, theo yêu cầu của Quốc tế Cộng sản, ông rời Thái Lan đến Hồng Kông. Tại đây, với danh nghĩa Phái viên Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc cùng với 6 người gồm Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh, Châu Văn Liêm và Nguyễn Thiệu đã tiến hành Hội nghị hợp nhất 3 đảng: An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (đại diện không kịp có mặt tại hội nghị) thành một đảng, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tuy nhiên, Quốc tế Cộng sản chủ trương chỉ thành lập ở Đông Dương một đảng duy nhất, thay vì riêng rẽ từng nước. Do vậy, tại Hội nghị lần thứ nhất của Ban chấp hành Trung ương Đảng ở Hồng Kông tháng 10 năm 1930, tên của đảng được đổi thành Đảng Cộng sản Đông Dương, với Trần Phú làm Tổng bí thư đầu tiên.

Trong giai đoạn 1930–1931, những cuộc nổi dậy trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh do Đảng cộng sản lãnh đạo bị chính quyền thực dân Pháp đàn áp dữ dội. Những thành viên lãnh đạo như Nguyễn Đức Cảnh, Nguyễn Phong Sắc, Lê Mao… bị Pháp truy bắt và tử hình. Nguyễn Ái Quốc bị tuyên án tử hình vắng mặt tại Tòa đại hình Vinh trước đó vào tháng 10 năm 1929 và lần hai vào tháng 2 năm 1930.

Tháng 4 năm 1930, Nguyễn Ái Quốc đến Thái Lan, Singapore, và Malaysia hoạt động thời gian ngắn. Trong thời gian ở Singapore, ông được Tổng lãnh sự Trung Quốc ở Singapore cấp hộ chiếu số B.98, mang tên "Tống Văn Sơ", quốc tịch Trung Quốc. Tháng 5 năm 1930, ông trở về Hồng Kông.

Diễn biến

Bị bắt tại Cửu Long

nhỏ|260x260px|Hồng Kông vào thập niên 1930|thế=

Khoảng đầu thập niên 1930, nhằm chống lại sự bành trướng của Quốc tế Cộng sản, mạng lưới tình báo Anh-Pháp tăng cường hoạt động tại Châu Á, đặc biệt khu vực Đông Nam Á. Một đặc phái viên của Quốc tế Cộng sản, Joseph Ducroux

Từ những sổ tay và thư từ của Ducroux, tình báo Anh lần ra thông tin những thành viên Quốc tế Cộng sản đang hoạt động tại Trung Quốc và Hồng Kông. Cấp trên của Lefranc kiêm Thư ký Chi nhánh Bộ Phương Đông (Bộ Liên lạc Quốc tế) Hilaire Noulens bị bắt tại Thượng Hải (Trung Quốc) vào tháng 6 năm 1931. Ngoài ra tình báo Anh còn phát hiện địa chỉ Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông. Vào lúc 2:00 sáng ngày 6 tháng 6 năm 1931, tại nhà số 186 phố Tam Kung, Cửu Long, một tốp cảnh sát ập vào bắt giữ Nguyễn Ái Quốc khi đó đang ở cùng Lý Phương Thuận (tên tiếng Anh: Li Sam hoặc Ly Ung Thuan, vợ của Hồ Tùng Mậu). Thời điểm bị bắt, Nguyễn Ái Quốc mang giấy tờ tùy thân tên "Tống Văn Sơ", quốc tịch Trung Quốc. Toàn quyền Pháp tại Hà Nội, René Robin, nhận được tin báo về việc bắt được Nguyễn Ái Quốc và đề nghị chính quyền Anh tại Hồng Kông thực hiện dẫn độ về Đông Dương để xét xử. Đổi lại, Pháp hứa sẽ giao cho phía Anh số tù nhân là đảng viên cộng sản Ấn Độ và Myanmar bị bắt trên đất thuộc Pháp. Nhưng vì giữa Anh và Pháp lúc đó không có hiệp ước dẫn độ riêng đối với các phạm nhân chính trị, nên chính quyền thuộc địa Anh ở Hồng Kông chỉ có thể tìm cách trục xuất Nguyễn Ái Quốc ra khỏi lãnh thổ Hồng Kông. Sau 6 ngày tạm giam, chính quyền Hồng Kông ra quyết định trục xuất Nguyễn Ái Quốc: ông sẽ bị áp giải với lính canh trên một chiếc tàu của Pháp đến một điểm được định trước, cụ thể là Việt Nam (nơi sinh của ông) — đây là kết quả thỏa thuận ngầm giữa họ và Tổng lãnh sự Pháp tại Hồng Kông, vì tòa án Vinh ở tỉnh Nghệ An đã kết án tử hình vắng mặt Nguyễn Ái Quốc vào tháng 10 năm 1929.

Ngày 19 tháng 6 năm 1931, dưới sự hậu thuẫn thông tin từ Quốc tế Cộng sản, tờ báo Nhân Đạo thuộc Đảng Cộng sản Pháp và các tờ báo thiên tả khác đồng loạt đăng tin về vụ bắt giữ Tống Văn Sơ; qua ngày 22 và 23 tháng 6 có thêm hai tờ báo lớn ở Hồng Kông là Hương Cảng Điện Báo (Hong Kong Telegraph) và Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng (South China Morning Post). Ngày 23 tháng 6, báo The Times (Anh) cáo buộc Nguyễn Ái Quốc bị chính quyền Hồng Kông bắt theo yêu cầu của Pháp và phía Pháp đề nghị dẫn độ. Nếu đối chiếu với quy định thời đó thì cuộc thẩm vấn này đã trái luật, vì Tống Văn Sơ bị bắt ngày 6 tháng 6 nhưng mãi đến hơn một tháng sau thì nhà chức trách mới thẩm vấn ông. Hơn nữa, người lấy cung không phải là người của tòa án mà là một người Anh làm việc tại Vụ Hoa kiều Hồng Kông.

Thống đốc Hồng Kông giai đoạn 1930–1935, William Peel|thế=

Để cứu Tống Văn Sơ, tổ chức Cứu tế Đỏ Quốc tế, một cơ quan thuộc Quốc tế Cộng sản, đã thuê luật sư Francis Henry Loseby để hỗ trợ pháp lý. Loseby cảnh báo với chính quyền Hồng Kông rằng nếu bị trục xuất, Tống Văn Sơ sẽ bị Pháp bắt giữ ngay khi vừa rời khỏi đất Hồng Kông để đưa về Đông Dương xét xử; đồng thời yêu cầu chính quyền Hồng Kông phải thả Tống Văn Sơ ra và cho phép Tống tự do đến nơi mà anh muốn.

Thống đốc Hồng Kông William Peel đành phải miễn cưỡng chấp thuận yêu cầu của luật sư Loseby. Trong bức điện tín báo cáo với Bộ Thuộc địa Anh tại London, Thống đốc Peel đề nghị nên thả tự do Tống Văn Sơ với điều kiện Tống phải rời Hồng Kông trong vòng 7 ngày. Theo ông, việc trục xuất Tống Văn Sơ về Đông Dương sẽ giống như một vụ dẫn độ trá hình và đi ngược lại những nguyên tắc công pháp của Anh quốc. Tuy nhiên, phía chính quyền Pháp cũng quyết tâm thực hiện kế hoạch dẫn độ Tống Văn Sơ. Đại sứ Pháp tại London, Jules Cambon, bày tỏ sự quan điểm với chính phủ Anh rằng: "Tống Văn Sơ (Nguyễn Ái Quốc) là một 'mối hiểm họa trên bình diện quốc tế' và đề nghị không được thả tự do". Bộ Ngoại giao Anh quốc (Foreign Office) muốn làm hài lòng phía chính phủ Pháp vì hai bên sẽ cùng hợp tác trong những hoạt động đàn áp nổi dậy trong khu vực Châu Á, nên đề nghị phải trục xuất Tống về Việt Nam như ý Pháp mong muốn. Do vậy, Thống đốc Hồng Kông đành phải tống đạt lệnh trục xuất thứ hai cho Tống Văn Sơ.— nhằm đưa vụ bắt giữ Tống Văn Sơ ra xét xử phiên tòa công khai. Loseby thuê hai luật sư tranh tụng (barrister) để tham gia vụ kiện. Nhóm luật sư do Loseby dẫn đầu cùng với 2 luật sư tranh tụng F. C. Jenkin và A. M. L. Soares đứng ra bảo vệ bên nguyên đơn. Luật sư Jenkin phản đối lệnh trục xuất thứ hai này của Thống đốc Hồng Kông. Jenkin gọi lệnh trục xuất này là "một sự lạm dụng quyền hành pháp" của chính quyền Hồng Kông.

Ngày 11 tháng 9 năm 1931, Toà án Tối cao Hồng Kông xác nhận tính hợp pháp cho lệnh trục xuất thứ hai của chính quyền Hồng Kông. Tòa cho rằng, tuy lệnh trục xuất này có thể liên quan đến việc dẫn độ nếu xét trên phương diện chính trị, nhưng hoàn toàn không vi phạm luật Anh quốc. Lệnh bảo thân Habeas Corpus của Tống Văn Sơ bị tòa án bác và Tống lại đứng trước nguy cơ bị trục xuất đến Đông Dương; trong khi đó, Lý Phương Thuận được thả tự do và được phép rời Hồng Kông.

Kháng án lên Cơ mật viện Vương quốc Anh

nhỏ|400x400px|Ủy ban Tư pháp Cơ mật viện Anh quốc tại London (Anh)|thế= Phía luật sư của Tống Văn Sơ ngay lập tức kháng án đến Ủy ban Tư pháp thuộc Viện Cơ mật Vương quốc Anh, nơi có thẩm quyền tối cao đối với các vụ án xảy ra tại các xứ thuộc địa của Anh. Họ cho rằng lệnh trục xuất Tống Văn Sơ không có giá trị pháp lý theo luật Hồng Kông và đây là "một sự lạm dụng quyền hành pháp" của chính quyền Hồng Kông.

Vì lịch làm việc của Viện Cơ mật chỉ có thể xử vụ việc của Tống Văn Sơ sớm nhất là đến tháng 11 năm 1932, tức hơn một năm sau đó). Thời điểm đó, sức khỏe ông suy nhược, thể trạng tiều tụy do mắc bệnh lao phổi. Hoàng thân Cường Để đã gửi thư cho Tống Văn Sơ khi biết ông bệnh nặng và còn gửi 300 yên để hỗ trợ viện phí.

Đến đầu năm 1932, đơn kháng cáo của Tống Văn Sơ được đưa ra xét xử tại Ủy ban Luật pháp thuộc Viện Cơ mật Hoàng gia Anh. Lần này, luật sư đại diện Tống Văn Sơ là Denis Nowell Pritt —một luật sư danh tiếng người Anh thuộc công ty luật "Messrs Light & Fulton", thành viên Công Đảng Anh, quan điểm thiên tả cực đoan và có xu hướng ủng hộ Liên Xô. Còn đại diện Cơ mật viện là Richard Stafford Cripps và Bộ trưởng Bộ Tài chính Anh.

Sau khi tìm hiểu vụ kiện, Cripps cho rằng đơn kháng cáo của nguyên đơn đối với lệnh trục xuất từ chính quyền Hồng Kông sẽ được ủng hộ tại tòa Cơ mật viện và Tống Văn Sơ sẽ được thả tự do. Theo nhà nghiên cứu Dennis Duncanson và chuyên viên pháp lý của Bộ Thuộc địa Anh Harold Bushe, Cripps có xu hướng thiên về quan điểm chính trị của bên nguyên đơn (Tống Văn Sơ) nên đã tìm cớ từ chối tranh tụng trước Viện Cơ mật. Ngày 27 tháng 6 năm 1932, Cripps thay mặt Bộ Thuộc địa và chính quyền Hồng Kông, dàn xếp ngoài tòa (out-of-court arrangement) với Luật sư Pritt. Sau đó, phía nguyên đơn của Pritt chủ động rút đơn kháng án với điều kiện kết quả phải có lợi cho Tống Văn Sơ. Phiên tranh tụng giữa hai bên, do vậy, chưa bao giờ diễn ra trước tòa Cơ mật viện.

Ngày 21 tháng 7 năm 1932, vì bên nguyên đơn đã rút kháng án, Cơ mật viện đưa ra phán quyết với 4 điều khoản. Thứ nhất, bỏ việc chỉ định "áp giải bằng tàu biển" trong lệnh trục xuất. Thứ hai, sau khi trục xuất, nơi đến không được là lãnh thổ Pháp, thuộc địa bảo hộ của Pháp, hoặc đi bằng tàu biển của Pháp. Thứ ba, chính quyền Hồng Kông sẽ nỗ lực tối đa đảm bảo nguyên đơn được trục xuất đến nơi mà nguyên đơn mong muốn. Cuối cùng, chính quyền Hồng Kông sẽ góp 250 bảng Anh

Thoát khỏi nhà tù Hồng Kông

Sau phiên kháng cáo tại Cơ mật viện, Nguyễn Ái Quốc có thể được thả tự do. Nhưng ông lo sợ sẽ bị chính quyền Pháp bắt khi đang trên đường đến London. Do tàu Liên Xô không cập cảng Hồng Kông được, Luật sư Loseby yêu cầu chính quyền Anh quốc hỗ trợ một địa điểm tị nạn tạm thời thuộc lãnh thổ Anh cho Nguyễn Ái Quốc. Vì lo sợ sẽ bị chính quyền Pháp bắt khi đi ngang kênh đào Suez và thành phố Port Said (Ai Cập), Nguyễn Ái Quốc yêu cầu được tị nạn tại Úc hoặc Nam Phi trước khi đến Châu Âu. Hai nước này đều từ chối. Nguyễn Ái Quốc quyết định sẽ đến Moskva. Tuy nhiên, nếu muốn đến Moskva từ Hồng Kông, phải chuyển tàu tại Thượng Hải hoặc Singapore, rồi cập cảng Vladivostok, thành phố biển phía Đông nước Nga. Nguyễn Ái Quốc chọn đi Singapore. Cảnh sát thuộc địa tại bán đảo Malay (Singapore ngày nay) đã từ chối cho Nguyễn Ái Quốc nhập cảnh; do vậy, đến ngày 15 tháng 1 năm 1933, Nguyễn Ái Quốc buộc phải đi tàu trở lại Hồng Kông trên chiếc tàu Ho Sang. Khi tàu cập cảng Hồng Kông ngày 19 tháng 1 năm 1933, cảnh sát Hồng Kông bắt Nguyễn Ái Quốc lần hai vì vi phạm lệnh của tòa (tức là cấm trở lại Hồng Kông trong vòng 10 năm).

Khi nghe tin Nguyễn Ái Quốc bị bắt lần hai, Loseby khẩn cầu Thống đốc Hồng Kông William Peel can thiệp và đứng ra bảo lãnh cho Nguyễn Ái Quốc. Thống đốc Peel ra lệnh thả Nguyễn Ái Quốc và yêu cầu ông phải rời khỏi Hồng Kông trong vòng 3 ngày. Để tránh tai mắt của mật thám Pháp, lần này Loseby cho ông ở tại một địa điểm bí mật tại Tân Giới, đồng thời tìm một hướng khác để thoát khỏi Hồng Kông. Lung Ting-chang, một thư ký của Loseby, cũng được sắp xếp để đi cùng Nguyễn Ái Quốc. Nguyễn Ái Quốc bí mật rời Hồng Kông trên một chiếc thuyền nhỏ, được sắp xếp bởi chính quyền Hồng Kông và thống đốc Peel, vượt ra eo biển Lý Ngư Môn (Lei Yue Mun) để đến chiếc tàu lớn An Huy (An Hui) đang chờ sẵn ngoài khơi. Sau đó, Nguyễn Ái Quốc đã chính thức rời Hồng Kông trên tàu An Huy để đến Hạ Môn (tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc), từ đó đi Thượng Hải, Vladivostok và Moskva.

Tranh cãi

Phát biểu của luật sư Loseby

Theo nguồn từ Đảng Cộng sản Việt Nam, ấn tượng của luật sư Loseby khi gặp Nguyễn Ái Quốc là "một người thanh niên Việt Nam gầy, xanh, song vẻ cương nghị, sự thông minh trong từng câu nói bằng tiếng Anh và đôi mắt sáng", ngoài ra còn nói với Nguyễn Ái Quốc rằng: "Tôi nhận giúp anh vì danh dự chứ không phải vì tiền".

Tuy nhiên, không có học giả phương Tây nào xác nhận câu nói trên. Theo các sử gia phương Tây, tổ chức Cứu tế Đỏ Quốc tế (MOPR) đã sắp xếp và trả thù lao cho Loseby.

Người liên hệ luật sư Loseby

Theo nguồn của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Tùng Mậu là người đã đến gặp luật sư Loseby nhờ giúp đỡ.

Tuy nhiên, theo nhiều nhà nghiên cứu khác, thông tin về cái chết của Nguyễn Ái Quốc chỉ là tin giả. Theo các nhà nghiên cứu như Duiker Báo Nhân Đạo (Pháp) số 12292, ra ngày 9 tháng 8 năm 1932 với nội dung: "Nguyễn Ái Quốc, sáng lập viên kiên cường của Đảng cộng sản Đông Dương đã chết vì bệnh lao phổi trong tù". Sau khi được thả ra ngày 28 tháng 12 năm 1932, để tránh sự theo dõi của mật thám Pháp, Loseby cũng loan tin rằng Nguyễn Ái Quốc đã chết vì bệnh lao phổi trong bệnh viện. Một số sinh viên người Việt ở Moskva thời điểm đó còn tổ chức lễ tưởng niệm khi nghe tin ông Nguyễn qua đời; một đại diện của Quốc tế Cộng sản đọc điếu văn trong lễ tưởng niệm này. Tuy nhiên, thông tin về cái chết của Nguyễn Ái Quốc chỉ nhằm tránh sự theo dõi của chính quyền Pháp đối với ông.

Đôi lúc ông rơi vào tuyệt vọng rằng ông sẽ không bao giờ được thả. Ông cho biết, thú tiêu khiển của ông khi trong tù là bắt rệp hoặc đọc kinh thánh Cơ Đốc.

Tuy nhiên, theo Duiker, khi ở bệnh xá nhà tù Bowen Road (sau này là Bệnh viện Quân y Anh quốc), ông Hồ được ở trong điều kiện thoải mái và thường có khách viếng thăm gồm chính khách và rất nhiều người Châu Âu. Luật sư Frank Loseby thậm chí còn đặt thêm bữa ăn từ một nhà hàng địa phương gần đó mang vào cho ông. Bộ phim được chỉ đạo bởi đạo diễn Khắc Lợi. Khi đối chiếu với các sự kiện ngoài đời thật, tác phẩm đã vấp phải một số sai phạm khách quan, ví dụ như việc Lê Duy Điếm (người đã mất ở Xiêm vào năm 1929) có mặt ở Hồng Kông để giúp Nguyễn Ái Quốc, hay một tướng cướp già đánh xe ngựa đến cứu ông.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Vụ án Tống Văn Sơ** là sự kiện liên quan đến Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) khi ông bị bắt giam ở Hồng Kông từ ngày 6 tháng 6 năm 1931 đến ngày 22
**Vụ án Lê Văn Luyện** là một vụ án giết người và cướp tài sản xảy ra tại tiệm vàng Ngọc Bích ở số 45 phố Sàn, xã Phương Sơn (nay là thị trấn Phương
**Vụ án Năm Cam và đồng phạm** hay **Chuyên án Z5.01** là vụ án về tội phạm có tổ chức đặc biệt, có tính đặc thù, đây là một vụ án lớn và phức tạp,
Phan Văn Anh Vũ, cựu Thượng tá Công an, doanh nhân bất động sản, bị cáo buộc với sự giới thiệu của Bộ Công an được UBND TP Đà Nẵng bán nhà đất công sản
**Vụ án Nguyễn Hải Dương** (hay **Vụ thảm sát ở Bình Phước năm 2015**) là vụ án hình sự về tội giết người và cướp tài sản diễn ra vào rạng sáng ngày 7 tháng
**_Vụ án Khá Bảnh_** là vụ án hình sự về tội đánh bạc và tổ chức đánh bạc của Khá Bảnh là người cầm đầu và các đồng phạm ở khu vực tỉnh Bắc Ninh,
**_Vụ án cầu Chương Dương_** là chuỗi sự việc liên quan đến vụ nổ súng vào Nguyễn Việt Phương, một nhân viên giao vận tiền tệ tại Việt Nam. Sự kiện được đánh giá nổi
**Vụ án Đồng Tâm** là vụ án tranh chấp đất đai nổi tiếng ở Việt Nam ở xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội, giữa dân làng Đồng Tâm và chính quyền
**Vụ án Nọc Nạng** (tiếng Pháp: _l’Affaire de Phong Thanh_) là một vụ án tranh chấp đất đai lớn, xảy ra năm 1928 tại làng Phong Thạnh, quận Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu (nay là
nhỏ|phải|Một bữa ăn do dịch vụ cung cấp nhỏ|phải|Sản phẩm của dịch vụ ăn uống **Dịch vụ ăn uống** (_Foodservice_ hay _Catering_) còn gọi là **Kinh doanh ẩm thực** hay **ngành F&B** là ngành công
**Vụ án Vạn Thịnh Phát** (hay **Đại án Vạn Thịnh Phát**), cũng được Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh gọi là **vụ án Trương Mỹ Lan và đồng phạm**, là một vụ
**Vụ án Hàn Đức Long** là một vụ án oan xảy ra tại tỉnh Bắc Giang của Việt Nam. Trong vụ án này, ông Hàn Đức Long đã bốn lần bị tòa án cấp sơ
**Vụ án Lệ Chi viên**, tức **Vụ án vườn vải**, là một vụ án oan nổi tiếng thời Lê sơ. Qua vụ án này, quan Đại thần Hành khiển Nguyễn Trãi và vợ là Lễ
**Vụ án Hồ Duy Hải** là một vụ án hình sự ở Việt Nam xảy ra vào tối ngày 13 tháng 1 năm 2008 tại Bưu Điện Cầu Voi, ấp 5, xã Nhị Thành, huyện
**Vụ án Vinashin** là một trong các vụ án kinh tế lớn nhất từ trước tới nay tại Việt Nam, liên quan tới số tiền thất thoát rất lớn. Một loạt các quan chức của
**Vụ án hai cựu chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Đà Nẵng** là việc hai cựu Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng là Trần Văn Minh (nhiệm kỳ 2006-2011) và Văn Hữu Chiến
**Vụ án Xét lại Chống Đảng**, còn được chính quyền Việt Nam gọi là **Vụ án Tổ chức chống Đảng, chống Nhà nước ta, đi theo chủ nghĩa xét lại hiện đại và làm tình
**Vụ ấu dâm Lương Quốc Dũng** xảy ra vào cuối năm 2003 và xét xử trong năm 2004. Là một vụ án lớn về xâm hại tình dục trẻ em tại Việt Nam trong thập
Vào tháng 1 năm 2016, Tổng công ty Viễn thông MobiFone thông báo hoàn thành việc mua cổ phần của AVG. Thương hiệu truyền hình An Viên của AVG sau đó đổi tên thành MobiTV.
**Ngô Văn thi** (chữ Hán: 吳文楚, ?– 1795), còn có tên là **Ngô Văn**, **Ngô Văn Thi**, là một danh tướng của nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự
**Vụ án Trịnh Vĩnh Bình** là vụ án một triệu phú ở Hà Lan, ông Trịnh Vĩnh Bình, đem hơn 3 triệu đô la Mỹ về Việt Nam làm ăn và đầu tư trong nước
**Vụ án tướng Trần Văn Thanh** là một vụ án gây xôn xao dư luận Đà Nẵng từ năm 2007. Trong những người bị đưa ra xét xử có Thiếu tướng Trần Văn Thanh, Chánh
**Vụ án buôn lậu 12 tấn heroin**, hay **chuyên án 006N** là một vụ án buôn lậu ma túy lớn với số lượng 32.000 bánh heroin có tổng khối lượng 12 tấn. ## Cáo trạng
**Vụ án Cù Huy Hà Vũ** còn được gọi là vụ án "hai bao cao su đã qua sử dụng" vì báo đăng khi công an bắt ông ta trong khách sạn với bà Hồ
**Vụ án Epco-Minh Phụng** là một trong những vụ án kinh tế nổi tiếng nhất của Việt Nam thập niên 90. Epco-Minh Phụng từng là công ty liên doanh của Thành phố Hồ Chí Minh.
**Vụ án Huỳnh Thị Huyền Như** chiếm đoạt hơn 600.955 tỷ Việt Nam đồng xảy ra tại VietinBank là vụ án lớn nhất trong lịch sử ngành Ngân hàng Việt Nam. Đây là một trong
**Vụ án thẩm mỹ viện Cát Tường** là vụ án xảy ra tại một thẩm mỹ viện ở thành phố Hà Nội, khi một khách hàng đến cơ sở để phẫu thuật làm đẹp đã
**Furuta Junko** (tiếng Nhật: 古田 順子 _Furuta Junko_, sinh ngày 18 tháng 1, 1971 – mất ngày 4 tháng 1, 1989) là một học sinh trung học Nhật Bản 17 tuổi đã bị bắt cóc,
**Vụ án Mr Pips và đồng phạm** hay còn gọi là **Vụ án Phó Đức Nam**. Đây là một vụ án kinh tế gây chấn động dư luận Việt Nam vào cuối năm 2024 khi
**Vụ án oan Nguyễn Thanh Chấn** là một vụ án oan trong lịch sử tố tụng của Việt Nam mà ông Nguyễn Thanh Chấn (sinh năm 1961 tại Bắc Giang) đã bị kết án chung
**Vụ án Thái Khắc Chuyên** (_The Green Beret Affair_) là những diễn tiến xoay quanh vụ sát hại của thông dịch viên người Việt Nam tên Thái Khắc Chuyên xảy ra trong tháng 6 năm
Vào năm 2013, Marte Deborah Dalelv, một người phụ nữ Na Uy sinh năm 1988, bị phạt tù 16 tháng tại Dubai, Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE) tội khai man, tình
**Vụ án nô lệ tình dục Lạc Dương, Trung Quốc** hay **Vụ án Lý Hạo**, **Chuyên án "3-9"** là một vụ trọng án liên quan đến hiếp dâm, giết người, tổ chức mại dâm và
**Các vụ án liên quan đến Tập đoàn Dầu khí Việt Nam** là việc các doanh nhân nhà nước tại Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) bị cáo buộc có các hành vi cố
**Phan Văn Anh Vũ** (sinh ngày 2 tháng 11 năm 1975), biệt danh **Vũ nhôm**, là một doanh nhân Việt Nam. Ông sống tại quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, được xem là _trùm_
**Lưu Tống Văn Đế** (chữ Hán: 劉宋文帝; 407–453), tên húy là **Lưu Nghĩa Long** (), tiểu tự **Xa Nhi** (車兒), là một hoàng đế của triều Lưu Tống thời Nam-Bắc triều. Ông là con trai
**Tổng công ty Công nghiệp Tàu thủy** (tên giao dịch tiếng Anh: _Shipbuilding Industry Corporation_, viết tắt là _SBIC_) là một tổng công ty chuyên về hoạt động đóng tàu do Nhà nước Việt Nam
**Bùi Văn Thành** (sinh năm 1958) nguyên là một sĩ quan Công an nhân dân Việt Nam, cấp hàm Đại tá. Ông là cựu Trung tướng, Thứ trưởng Bộ Công an Việt Nam, Ủy viên
**Vụ án phố Ôn Như Hầu** là vụ án xảy ra tại Hà Nội năm 1946. Sở Công an Bắc Bộ điều tra và thu thập được nhiều chứng cứ, bao gồm các vũ khí,
**Vụ án Tukhachevsky** (), còn được gọi là vụ "tổ chức quân sự Trotsky chống Xô Viết", là một trong những trang bi thảm nhất trong lịch sử đàn áp dưới thời Stalin. Năm 1937,
**Những vụ án ấu dâm của giáo sĩ triều Rôma** đề cập tới các vụ án, điều tra, truy tố, xét xử và những cáo buộc về lạm dụng tình dục trẻ em đối với
**Vụ án Tamám Shud**, còn được gọi là **bí ẩn của người đàn ông Somerton**, là một vụ án chưa được giải quyết về cái chết của một người đàn ông không xác định
"**Đại án Bacolod**", hay còn được biết đến với cái tên là "**Nỗi hổ thẹn ở Bacolod**", là vụ việc một số cầu thủ của đội tuyển U-23 Việt Nam tham gia cá độ, tổ
**Trình Văn Thống** là Trung tướng Công an nhân dân Việt Nam. Ông nguyên là Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh, Bộ Công an (Việt Nam).
nhỏ|[[Quân kỳ của Cảnh sát biển Việt Nam]] **Vụ án tham ô tài sản tại Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển** là các vụ án trong đó một số tướng lĩnh trong Ban Thường vụ
**Tống Văn công** (chữ Hán: 宋文公, ?-589 TCN, trị vì 611 TCN-589 TCN), tên thật là **Tử Bão Cách** (子鮑革) hay **Tử Bão** (子鮑), là vị vua thứ 24 của nước Tống - chư hầu
**Tống Văn Trinh** (1923-2008), còn có tên là **Hai Tỷ**, là một điệp viên của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hoạt động qua suốt thời kỳ 1945-1975. Ông được biết đến nhiều nhất với
**Vụ án mạng Lâm Tuấn** là một vụ án giết người liên quan đến phân xác xảy ra ở thành phố Montreal, Canada. Vào tháng 5 năm 2012, Lâm Tuấn (30 tháng 12 năm 1978
**Vũ Bằng** (3 tháng 6 năm 1913 – 7 tháng 4 năm 1984), họ và tên đầy đủ là **Vũ Đăng Bằng**, là một nhà văn, nhà báo của Việt Nam. Ông là người có
nhỏ|Ảnh Faisal bin Fahd từ năm 1978. **Vụ án Kim cương Xanh** là một vụ trộm 90 kg đá quý với tổng trị giá 20 triệu USD, trong đó có một viên kim cương xanh