✨Những vụ án ấu dâm của giáo sĩ Công giáo Rôma

Những vụ án ấu dâm của giáo sĩ Công giáo Rôma

Những vụ án ấu dâm của giáo sĩ triều Rôma đề cập tới các vụ án, điều tra, truy tố, xét xử và những cáo buộc về lạm dụng tình dục trẻ em đối với nhiều linh mục và thành viên dòng tu của Giáo hội Công giáo Rôma, bắt đầu từ thập niên 1980. Đối tượng của các vụ án xâm hại tình dục này là các trẻ em nam và nữ, và phần lớn là nằm trong độ tuổi từ 11 cho đến 14 tuổi. Cuộc khủng hoảng này gây ảnh hưởng to lớn tới uy tín của giới lãnh đạo Giáo hội Công giáo Rôma. phản ánh các tình trạng lạm dụng kéo dài và lề thói của hàng giáo phẩm thường che đậy các báo cáo về lạm dụng. Giới chức giáo phận và giới hàn lâm chuyên về Công giáo nói rằng các lạm dụng tình dục do giáo sĩ nhìn chung không được thảo luận và do vậy nên khó đo lường. Một số người trong hàng giáo phẩm của Giáo hội cho rằng truyền thông đưa tin quá mức và không cân đối, rằng các lạm dụng cũng xảy ra tại các tôn giáo và tổ chức khác; quan điểm này làm quan ngại những người chỉ trích coi việc này là một cách lảng tránh giải quyết vấn đề lạm dụng trong Giáo hội. Một số nguồn chỉ ra rằng tỉ lệ các linh mục Công giáo lạm dụng không lớn hơn các tổ chức khác hay tỉ lệ lạm dụng của nam giới nói chung.

Tổng quan

Trong thập niên 1990 và 2000, giới truyền thông trên thế giới đã khai thác mạnh chủ đề lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên của giáo sĩ Công giáo tại một số quốc gia. Giáo hội Công giáo bị chỉ trích vì một vài Giám mục đã bao che cho các linh mục bị cáo buộc, không xử lý mà lại thuyên chuyển họ đến mục vụ nơi khác, để tình trạng này tiếp diễn. Giáo hội Công giáo đã thiết lập thủ tục chính thức để giải quyết vấn đề này. Người phát ngôn của Vatican cho biết họ xử lý rất nghiêm chỉnh đối với vụ tai tiếng lạm dụng tình dục trẻ em. Ông cũng nói các nhà lãnh đạo giáo hội phải hợp tác với nhà chức trách dân sự về những trường hợp lạm dụng tình dục trẻ em. Theo văn phòng của Giáo hội đang phụ trách về sự việc, họ đã nhận được đơn tố cáo về hơn 4.000 vụ trong thập niên qua trong đó hình thức tương đối phổ biến nhất là tình dục đường hậu môn và đường miệng. Đã có việc khởi tố vụ án hình sự của một số kẻ lạm dụng và các vụ kiện dân sự chống lại các giáo phận và giáo xứ của giáo hội đối với các trường hợp kéo dài nhiều thập kỷ và được đưa ra nhiều năm sau khi xảy ra việc lạm dụng. Một số vụ kiện và cáo buộc cũng nhắm vào những lãnh đạo cấp cao của Giáo hội đã cố tình không báo cáo những cáo buộc lạm dụng tình dục để các cơ quan pháp luật thực thi chức năng điều tra đồng thời cố tình luân chuyển công tác các linh mục lạm dụng tình dục các giáo xứ khác nơi mà việc lạm dụng đôi khi vẫn được tiếp diễn. Một số tu sĩ được thuyên chuyển từ giáo phận này sang giáo phận khác nên họ có thể tiếp tục lạm dụng trẻ em.

Thực tế thì Văn phòng của giáo hội phụ trách về những trường hợp lạm dụng tình dục, đã nhận được đơn tố cáo về hơn 4.000 vụ làm dụng tình dục trẻ em của các tu sĩ trong đó co thông tin chi tiết về 3.000 giáo sĩ Thiên chúa bị các Giám mục phụ trách báo cáo về Rome là đã có hành vi tình dục sai trái, phạm tội hình sự liên quan tới tình dục. Trong đó có 60% các vụ việc liên quan tới tình dục đồng giới, 30% liên quan tới tình dục dị giới và chỉ có 10% (khoảng 300 giáo sĩ) là các vụ thực sự là ấu dâm. Nhiều linh mục Công giáo tại Bỉ đã phạm tội ấu dâm trong khoảng thời gian từ năm 1950 đến 1980. Cuộc điều tra do giáo hội Bỉ tiến hành đã công bố kết quả theo đó cáo buộc một số linh mục tại Bỉ đã gây ra hàng trăm vụ lạm dụng tình dục trẻ em. Ủy ban điều tra của giáo hội Bỉ liên tiếp nhận được hơn 500 đơn tố cáo của các nạn nhân, trong đó hầu hết là nam giới và đã có 13 nạn nhân được xác nhận đã tự tử. Ở Ý, các vụ giáo sĩ lạm dụng tình dục trẻ em đang được đưa ra công khai, có trên 80 trường hợp. Nhiều trường hợp, các nạn nhân bị lạm dụng đã tự tử và có trường hợp nạn nhân chỉ mới 2 tuổi. Ngoài ra, ở Đức các vụ lạm dụng tình dục trong nội bộ Giáo hội Công giáo ở Đức bị tiết lộ khi chủng viện Dòng Tên Canisius ở Berlin thừa nhận rằng ba linh mục đã phạm những hành vi lạm dụng tình dục học sinh của trường trong những năm 1970 và 1980, điều này gây ra một cơn phẫn nộ trong dư luận. Ông hiệu trưởng trường dự bị đại học Công giáo Aloisius (Aloisiuskolleg') tại Bonn-Bad Godesberg cũng đã từ chức khi dư luận nghi ngờ ông này biết (nhưng không báo) chuyện thầy giáo loạn dâm với học trò. Theo tạp chí Der Spiegel, có 100 linh mục bị nghi ngờ lạm dụng tình dục trẻ em từ năm 1995 đến 2010. Tuy nhiên nhiều vụ trong số này khó có thể được khởi tố vì theo pháp luật thì thời hạn tối đa cho việc khởi tố ấu dâm là 10 năm sau khi nạn nhân tròn 18 tuổi. Dầu sao, các vụ việc này đã gây ra nhiều làn sóng tranh cãi về việc nhà thờ che giấu linh mục loạn dâm và quy định tu sĩ bắt buộc sống độc thân. Một cuộc điều tra dự kiến được tổ chức dưới sự hợp tác của Viện nghiên cứu Tội phạm học Hạ Sachsen (KFN) và các đại diện của Giáo hội Công giáo Đức, tuy nhiên rốt cục bị hủy bỏ vì sự thiếu hợp tác của nhà thờ. Người đứng đầu KFN, Christian Pfeiffer tố cáo là có người cố tình kiểm duyệt và che giấu cuộc điều tra. Tờ báo cánh tả Die Tageszeitung so sánh Giáo hội có một "cái lỗ đen" trong tim, và người dân đang mất lòng tin vào một cơ quan đáng ra có nhiệm vụ duy trì lòng tin. Tờ cánh hữu Frankfurter Allgemeine Zeitung nói thẳng rằng, sau cùng kẻ thua cuộc chỉ có thể là Giáo hội. Tờ cánh hữu Die Welt mô tả các vấn đề về lạm dụng tình dục vẫn còn trong bóng tối, và sự giận dữ của dư luận thì vẫn còn tồn tại dai dẳng.

Tại Bỉ

Một báo cáo dài 200 trang của Ủy ban Giám sát Giáo hội điều tra về 475 trường hợp tình nghi ấu dâm cho thấy nạn ấu dâm trong nhà thờ Công giáo tại Bỉ đã lan rộng và gây nhiều tác hại. Ít nhất có 13 nạn nhân đã tự tử với nguyên nhân có liên quan đến việc bị xâm hại. Trong số các nạn nhân, có người chỉ mới 2 tuổi. Hai phần ba số nạn nhân là nam giới, và nhiều nhất là các bé trai 12 tuổi. Trong phần lớn các trường hợp, lạm dụng kết thúc khi nạn nhân đến tuổi 15-16. Nhiều thủ phạm là các giáo sĩ quen thân với gia đình nạn nhân, điều này khiến cho nạn nhân khó có cơ hội tố cáo thủ phạm căn cứ trên việc gia đình rất tin tưởng những giáo sĩ loạn dâm này. Ủy ban không tìm ra bằng chứng cho thấy nhà thờ có dính líu một cách hệ thống đến việc bao che cho các linh mục loạn dâm, nhưng có những trường hợp cho thấy người ta đã ngó lơ hành động của một số giáo sĩ. Ông Peter Adriaenssens, người đứng đầu của Ủy ban Giám sát, phát biểu rằng gần như tất cả các trường học đều có xảy ra hiện tượng linh mục loạn dâm, đặc biệt là các trường nội trú. Điều này cho thấy, giới tăng lữ lãnh đạo giáo hội tại Ireland đã cố tình giảm nhẹ các vụ giáo sĩ lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên., ông ta viết các chỉ dẫn mới cho các giáo sĩ và tín đồ giáo hội Công giáo ở Ireland, đưa ra những quy tắc nghiêm ngặt hơn trong việc xử lý các vụ ấu dâm do các giáo sĩ thực hiện. Hồng y Sean Brady đứng đầu Công giáo ở Ireland phát biểu rằng ông vô cùng ân hận và xấu hổ trước tình trạng tu sĩ lạm dụng trẻ em lan tràn và che giấu chuyện lạm dụng ở Dublin.

Các quốc gia liên quan

  • Châu Phi Kenya Tanzania
  • Châu Á ** Philippines
  • Châu Âu Áo (Ấu dâm ngay tại Thủ đô Viên) Bỉ Croatia (tại Zagreb và Rijeka) Pháp (Seine et Marne) Cộng hòa Ireland (ở Dublin và Ferns, những vụ ấu dâm là một vấn nạn lớn ở quốc gia này). Malta Na Uy Thụy Điển (Stockholm) ** Anh
  • Châu Mỹ Canada, ở Ontario Hoa Kỳ México Argentina Brazil (Anápolis, Penedo) Chile (Santiago, Valparaíso, Rancagua, Punta Arenas), ** Peru
  • Châu Đại dương Úc (Sydney và Melbourne) New Zealand

Các quan điểm

Vụ việc này được cho là một đòn giáng mạnh vào Giáo hoàng Biển Đức XVI; ông tỏ ra "rất đau buồn trước sự thật kinh hoàng này", mặt khác ấu dâm là một chủ đề bị cấm kỵ tại tòa thánh.]]

Về phía Giáo hoàng Biển Đức XVI, ông gọi những hành động của linh mục dưới quyền mình là sự quan ngại, là sai và phỉ báng. Linh mục Lombardi, phát ngôn viên chính thức của Vatican nhấn mạnh rằng nạn ấu dâm không chỉ xảy ra trong phạm vi Giáo hội. Và song song với đó, Tòa thánh Vatican đã lên tiếng đả kích điều mà họ gọi là những mưu toan nhằm nối kết Giáo hoàng Biển Đức XVI với một vụ tai tiếng ngày càng lan rộng về những linh mục xâm hại tính dục trẻ em ở Đức. Linh mục Lombardi phủ nhận những gợi ý cho rằng Giáo hội Công giáo tìm cách che đậy những vụ bê bối của các linh mục.

Hans Küng - nhà thần học Công giáo bất đồng quan điểm với Giáo hội - cho rằng, quan niệm khắt khe và bảo thủ của Giáo hội về đời sống độc thân của tu sĩ là nguyên nhân của tình trạng ấu dâm và loạn dâm xảy ra trong Giáo hội, và kết luận việc bắt buộc sống độc thân là "nguồn gốc của mọi tội lỗi". Küng chỉ ra rằng Giêsu và các tông đồ tuy khuyến khích độc thân nhưng không hề cấm người ta lấy vợ sinh con, thậm chí các tông đồ của Giêsu ai nấy đều có vợ con. Küng còn tố cáo chính Giáo hoàng Biển Đức XVI là người trực tiếp sách hoạch nên chương trình bao che và dung dưỡng các vụ án ấu dâm của giới tu sĩ trên toàn cầu. Trong một bức thư gửi các Giám mục Công giáo, ông nói rằng cách hành xử của Giáo hội về các sự vụ này đã gây ra cuộc khủng hoảng về khả năng lãnh đạo cũng như về đức tin trong Giáo hội: "Sự thật không thể chối cãi đó là, cái hệ thống quy mô toàn cầu nhằm bao che tội ác loạn dâm của tu sĩ đã được xây dựng lên bởi Thánh bộ Đức tin dưới thời kỳ nắm quyền của Hồng y Ratzinger (1981-2005). Trong triều đại của Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Thánh bộ Đức tin đã xử lý các vụ việc này với nguyên tắc là "im lặng tuyệt đối". Chính bản thân Ratzinger vào ngày 18 tháng 5 năm 2001 đã ra một văn bản chỉ thị cho các giám mục về cách thức xử lý các tội ác nghiêm trọng (epistula de delictis gravioribus), trong đó các vụ án lạm dụng tình dục phải được xử lý một cách tuyệt đối bí mật (secretum pontificium), ai không làm đúng như thế sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc. Vì vậy, với "lý do hợp lý", dưới sự quản lý của Ratzinger, nhiều người chỉ phải chịu hình phạt sám hối."

Nhà thần kinh học Sam Harris cũng tố cáo Giáo hội đã bao che và dung dưỡng cho những tu sĩ loạn dâm. Ông gọi việc hiếp dâm trẻ em trong nhà thờ là "sự phản bội" đối với đức tin, và kêu gọi truy tố Vatican ra trước công lý: "Giáo hội Công giáo trong suốt hai nghìn năm đã làm ô uế khía cạnh tính dục của con người tớ một mức độ mà không tổ chức nào có thể sánh bằng. Chúng ta đang có một tổ chức - một tổ chức giàu có nhất quả đất - ưu tiên thu hút những kẻ đồng dâm, ấu dâm, bạo dâm vào hàng ngũ của nó, bổ nhiệm những tên này vào các vị trí quyền lực và ban cho chúng quyền được tiếp cận với trẻ em. [...] Vụ bê bối trong Giáo hội Công giáo - nói trắng ra sự tồn tại của Giáo hội chính là điều bê bối đó - bao hàm việc cưỡng hiếp và tra tấn trẻ em có tổ chức. Nạn nhân đã bị đánh bằng roi và bị xâm hại tình dục - nhiều khi bởi nhiều hung thủ cùng lúc - cho đến khi thân thể tóe máu, rồi sau đó lại bị đánh đập và bị đe dọa sẽ xuống hỏa ngục nếu dám tố cáo. Nhiều người đủ dũng cảm để tố cáo thị bị vu khống là nói dối, rồi lại bị đưa trở về chỗ cũ để tiếp tục bị hiếp dâm. [...] Các bằng chứng cho thấy việc hành hạ đám trẻ bị che giấu và dung dưỡng bởi những quan chức các cấp của Giáo hội Công giáo, bao hàm cả ông giáo hoàng hiện tại. Trong thời kỳ còn là Hồng y Ratzinger, Giáo hoàng Biển Đức XVI là người trực tiếp chỉ đạo việc xử lý vấn nạn loạn dâm trong Nhà thờ. Ông ta đã làm gì khi biết rằng thuộc cấp của mình hiếp dâm hàng nghìn trẻ em ? Những phản ánh kéo dài và tuyệt vọng về vấn nạn loạn dâm đã bị bỏ mặc, nhân chứng bị ép buộc phải giữ im lặng, giáo sĩ được tôn vinh vì hành động coi thường luật pháp, hung thủ chỉ được thuyên chuyển đến nơi khác để rồi chúng tiếp tục làm bậy ở giáo phận mới. Nói không ngoa, suốt hàng chục hay hàng trăm năm nay, Vatican xứng đáng được đánh giá là một tổ chức tội phạm, không chỉ phạm các tội ác về cờ bạc, đĩ điếm, ma túy mà còn phạm tội ác tình dục đối với trẻ em.

Peter Adriaenssens, người đứng đầu đoàn điều tra vấn đề linh mục loạn dâm ở Bỉ, đã nhận xét "Không ai trong chúng tôi chuẩn bị tinh thần sẵn sàng để đón nhận sự nghiêm trọng của các báo cáo về tình trạng lạm dụng mà chúng tôi nhận được. Tất cả chúng tôi đều phải nghi ngờ về đức tin của mình vào Thiên Chúa, vào Giáo hội và vào nhân tính.

Ý kiến phản bác

Tuy vậy, một số vị giáo sĩ đã tự bảo vệ mình với lý luận rằng những người này thành thực tin rằng việc họ có quan hệ tình dục không phải là tội lỗi, nếu như đó không phải là quan hệ với một người phụ nữ Về phía các nạn nhân, họ cho rằng cần phải có thêm hành động để tái phục hồi lòng tin của dân chúng. Hồng y Brady ở Ailen đã xin lỗi các nạn nhân và gia đình của họ và một thực tế là các nhà chức trách ở Ailen đã tạo điều kiện cho việc che giấu khi cho phép Giáo hội hoạt động ngoài luật pháp. Có ý kiến cho rằng Giáo hội Công giáo nên lắng nghe tiếng nói của các nạn nhân thay vì nghe các tu sĩ vì hành động của giáo hội cho thấy họ chỉ quan tâm hầu hết đến các tu sĩ bị cáo buộc lạm dụng tình dục.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Giáo hoàng Piô XI** (tiếng Latinh: **Pius XI**, tiếng Ý: **Pio XI**) là vị Giáo hoàng thứ 259 của Giáo hội Công giáo Rôma. Theo niên giám tòa thánh năm 2003 xác định ngày đắc
**Biển Đức XVI** (cách phiên âm tiếng Việt khác là _Bênêđictô XVI_ hay _Bênêđitô_, xuất phát từ Latinh: _Benedictus_; tên khai sinh là **Joseph Aloisius Ratzinger**; 16 tháng 4 năm 1927 – 31 tháng 12
**Lịch sử châu Âu** mô tả những sự kiện của con người đã diễn ra trên lục địa châu Âu. Từ thời tiền sử tới thời hiện đại. Châu Âu có một lịch sử dài,
**Giáo hoàng Phaolô III** (Tiếng Latinh: **Paulus III**, Tiếng Ý: _Paolo III_) (29 tháng 2 năm 1468 – 10 tháng 11 năm 1549) là vị Giáo hoàng thứ 220 của Giáo hội Công giáo Rôma.
**Thánh Piô X, Giáo hoàng** (Tiếng Latinh: _Sancte Pie X_) (2 tháng 6 năm 1835 – 20 tháng 8 năm 1914), tên khai sinh: **Melchiorre Giuseppe Sarto** là vị Giáo hoàng thứ 257 của Giáo
**Giáo hoàng Phanxicô** ( ; ; ; 17 tháng 12 năm 1936 – 21 tháng 4 năm 2025; tên thật là **Jorge Mario Bergoglio**) là vị giáo hoàng thứ 266 của Giáo hội Công giáo
**Giáo hoàng Gioan Phaolô I** (Latinh: _Ioannes Paulus PP. I_, tiếng Ý: _Giovanni Paolo I_, tên khai sinh là **Albino Luciani**, 17 tháng 10 năm 1912 – 28 tháng 9 năm 1978) là vị Giáo
**Grêgôriô XIII** (, ) là vị giáo hoàng thứ 226 của Giáo hội Công giáo Rôma. Theo niên giám Tòa Thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1572 và ở ngôi Giáo
**Giáo hội Công giáo**, gọi đầy đủ là **Giáo hội Công giáo Rôma**, là giáo hội Kitô giáo được hiệp thông hoàn toàn với vị giám mục giáo phận Rôma, hiện tại là Giáo hoàng
**Giáo hoàng Piô IX** (Tiếng Latinh: _Pie IX_; tiếng Ý: _Pio IX_; tên khai sinh: **Giovanni Maria Mastai Ferretti**;) là vị giáo hoàng thứ 255 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh
nhỏ|phải|Chữ thập của dòng Đền Các **Chiến hữu Nghèo của Chúa Kitô và Đền Solomon** (tiếng Latinh: _paupers commilitones Christi Templique Solomonici_), thường được gọi tắt là **Hiệp sĩ dòng Thánh**, **Hiệp sĩ dòng Đền**
**Nicôla I** (Latinh: Nicolaus I) là vị giáo hoàng thứ 105 của giáo hội Công giáo. Là người kế nhiệm Giáo hoàng Benedict III, Giáo hoàng Nicolau I được giáo hội suy tôn là thánh
**Piô VII** là vị giáo hoàng thứ 251 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng vào ngày 14 tháng 3 năm 1800 và ở
**Giáo hoàng Innôcentê XI** (Tiếng Latinh: _Innocentius XI_, tiếng Ý: _Innocenzo XI_) tên khai sinh là **Benedetto Odescalchi**, là vị giáo hoàng thứ 239 của giáo hội Công giáo và là người cai trị Lãnh
**Chiến tranh Tôn giáo Pháp** là một chuỗi gồm tám cuộc tranh chấp giữa phe Công giáo và phe Huguenot (Kháng Cách Pháp) từ giữa thế kỷ 16 kéo dài đến năm 1598. Ngoài những
**Clêmentê VII** (Latinh: **Clemens VII**) là vị giáo hoàng thứ 219 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông được bầu làm Giáo hoàng năm 1523 và ở ngôi
**Thánh Giáo hoàng Piô V**, (Tiếng Latinh: _Sancte Pie V_, tiếng Ý: _San Pio V_) là vị giáo hoàng thứ 225 của giáo hội Công giáo. Ông đã được giáo hội suy tôn là thánh
**Công đồng đại kết Vatican lần thứ hai**, gọi tắt là **Công đồng Vatican lần thứ hai** hay **Vatican II**, là công đồng đại kết thứ 21 của Giáo hội Công giáo La Mã. Công
**Clêmentê XI** (Latinh: **Clemens XI**) là vị giáo hoàng thứ 243 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1700 và ở ngôi Giáo
**Lêô III** (Tiếng Latinh: **Leo III**) là vị giáo hoàng thứ 96 của giáo hội Công giáo. Ông đã được Giáo hội suy tôn là thánh sau khi qua đời. Niên giám tòa thánh năm
nhỏ|phải|Một nữ tu đang truyền đạo cho thanh niên người bản xứ ở [[Guadulupe]] **Công giáo tại Mexico** (**Giáo hội Công giáo Mễ Tây Cơ** hay **Nhà thờ Công giáo ở Mexico**) là một phần
**Innôcentê IV** (Latinh: **Innocens IV**) là vị giáo hoàng thứ 180 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1243 và ở ngôi Giáo
**Dòng thời gian sơ khai** của **chủ nghĩa Quốc xã** bắt đầu từ lúc thành lập cho đến khi Adolf Hitler lên nắm quyền (tháng 8 năm 1934). ## Ảnh hưởng từ thế kỷ 19
**James IV** (17 tháng 3 năm 1473 - 9 tháng 9 năm 1513), là vua của Scotland từ ngày 11 tháng 6 năm 1488 đến khi qua đời vào ngày 9 tháng 9 năm 1513.
**Piô II** (Latinh: **Pius II**) là vị giáo hoàng thứ 210 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1458 và ở ngôi Giáo
**Gioan Phaolô II** (hay **Gioan Phaolô Đệ Nhị;** tiếng Latinh: _Ioannes Paulus II_; tên khai sinh: **Karol Józef Wojtyła,** ; 18 tháng 5 năm 1920 – 2 tháng 4 năm 2005) là vị giáo hoàng
**Karl V** (tiếng Tây Ban Nha: _Carlos_; tiếng Đức: _Karl_; tiếng Hà Lan: _Karel_; tiếng Ý: _Carlo_) (24 tháng 2 năm 1500 – 21 tháng 9 năm 1558) là người đã cai trị cả Đế
**Otto I Đại đế** (23 tháng 11 năm 912 – 7 tháng 5 năm 973), thuộc dòng dõi Liudolfinger, con trai của Heinrich Người săn chim và Mathilde của Ringelheim, là Công tước Sachsen, vua
**Lịch sử của chế độ Giáo hoàng** là một lịch sử lâu dài kéo dài trong suốt 2000 năm với rất nhiều sự kiện và biến động. Giáo hội Công giáo nhìn nhận Giáo hoàng
**Công giáo tại Việt Nam** là một bộ phận của Giáo hội Công giáo, dưới sự lãnh đạo tinh thần của các giám mục tại Việt Nam, hiệp thông với giáo hoàng. Với số tỉ
**Richard I** (8 tháng 9 năm 1157 – 6 tháng 4 năm 1199) là Quốc vương nước Anh từ 6 tháng 7 năm 1189 cho tới khi mất. Ông cũng là Công tước của Normandy,
**Grêgôriô VII** (Latinh: **Gregorius VII**) là một giáo hoàng có vai trò rất lớn đối với lịch sử giáo hội Công giáo và được suy tôn là thánh sau khi qua đời. Ông là nhân
**Mary I của Anh** (tiếng Anh: _Mary I of England_; tiếng Tây Ban Nha: _María I de Inglaterra_; tiếng Pháp: _Marie Ire d'Angleterre_; tiếng Đức: _Maria I. von England_; tiếng Ý: _Maria I d'Inghilterra;_ 18
Tính đến ngày 31/5/2018, Giáo hội Công giáo bao gồm 3,160 khu vực thuộc quyền tài phán giáo hội, trong đó có 645 Tổng giáo phận và 2,236 Giáo phận, cũng như Đại diện Tông
**Louis XIV của Pháp** (; 5 tháng 9 năm 16381 tháng 9 năm 1715), còn được gọi là **Louis Đại đế** (, ) hay **Vua Mặt Trời** (, ), là một quân chủ thuộc Nhà
**Felipe IV của Tây Ban Nha** (, ; 8 tháng 4 năm 1605 – 17 tháng 9 năm 1665) là Vua Tây Ban Nha từ năm 1621 đến năm 1665, vương chủ của người Hà
**Philippe II Auguste** (21 tháng 8 năm 1165 - 14 tháng 7 năm 1223) là vua Pháp từ năm 1180 đến khi băng hà. Là một thành viên của nhà Capet, Philippe Auguste sinh ra
**Tôn giáo tại Hoa Kỳ** đặc trưng bởi sự đa dạng các niềm tin và thực hành tôn giáo. Theo các cuộc thăm dò ý kiến gần đây, 76% tổng số dân Hoa Kỳ nhận
**Pedro II** (tiếng Anh: _Peter II_; 02 tháng 12 năm 1825 - 5 tháng 12 năm 1891), có biệt danh là "**Người cao thượng**", là vị hoàng đế thứ 2 và cuối cùng của Đế
**James II và VII** (14 tháng 10 năm 1633 – 16 tháng 9 năm 1701) là vua của Anh và Ireland với vương hiệu **James II** và cũng là vua của Scotland với vương hiệu
**Catalina của Aragón và Castilla**, (tiếng Tây Ban Nha: _Catalina de Aragón y Castilla_; tiếng Anh: _Catherine of Aragon_; tiếng Đức: _Katharina von Aragon_; tiếng Bồ Đào Nha: _Catarina de Aragão e Castela_; tiếng Pháp:
**João VI** hoặc **John VI** (tiếng Bồ Đào Nha: **João VI**; – ), biệt danh là "the Clement", là vua của Vương quốc Liên hiệp Bồ Đào Nha, Brasil và Algarve từ năm 1816 đến năm
**Carlos III của Tây Ban Nha** (Tiếng Anh: _Charles III_; Tiếng Ý và Tiếng Napoli: _Carlo Sebastiano_; Tiếng Sicilia: _Carlu Bastianu_; Sinh ngày 20/01/1716 - Mất ngày 14/12/1788) là Công tước có chủ quyền xứ
**Edward II của Anh** (25 tháng 4, 1284 – 21 tháng 9, 1327), còn gọi là **Edward xứ Caernarfon**, là Vua của Anh từ 1307 cho đến khi bị lật đổ vào tháng 1 năm
**Umberto II của Ý** (15 tháng 9 năm 1904 – 18 tháng 3 năm 1983) là vị vua cuối cùng của Ý. Ông trị vì 34 ngày, từ ngày 09 tháng 5 tới ngày 13
**Henry VII** (tiếng Wales: _Harri Tudur_; tiếng Anh: _Henry VII of England_; 28 tháng 1, 1457 - 21 tháng 4, 1509) là Quốc vương của nước Anh và là Lãnh chúa của Ireland, lên ngôi
**Louis XVI của Pháp** (23 tháng 8 năm 1754 – 21 tháng 1 năm 1793) là quân vương nhà Bourbon, cai trị nước Pháp từ năm 1774 đến 1792, rồi bị xử tử hình năm
**Carlos II của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: Carlos II, 6 tháng 11 năm 1661 - 1 tháng 11 năm 1700), còn được gọi là **Kẻ bị bỏ bùa** (tiếng Tây Ban Nha:
**Maximiliano I của México** (tiếng Đức: _Ferdinand Maximilian Joseph Maria von Habsburg-Lothringen_; tiếng Tây Ban Nha: _Fernando Maximiliano José María de Habsburgo-Lorena_; 6 tháng 7 năm 1832 - 19 tháng 6 năm 1867) là một
**Casimir III Vĩ đại** (tiếng Ba Lan: Kazimierz III Wielki; 30 tháng 4 năm 1310 – 5 tháng 11 năm 1370) làm vua Ba Lan từ năm 1333 đến năm 1370. Ông là con trai