✨Văn Khương

Văn Khương

Văn Khương (chữ Hán: 文姜; ? - 673 TCN), còn gọi là Tề Văn Khương (齊文姜), là một công chúa của nước Tề thời Xuân Thu và là phu nhân của Lỗ Hoàn công, mẹ của Lỗ Trang công, các vị quân chủ của nước Lỗ trong lịch sử Trung Quốc.

Văn Khương cùng chị gái Tuyên Khương đều nổi tiếng có nhan sắc xinh đẹp đương thời. Việc loạn luân với người anh khác mẹ là Tề Tương công của Văn Khương đã dẫn đến việc Tương công giết chết chồng bà là Lỗ Hoàn công khi sự việc bị phanh phui. Vì sự việc tai tiếng trứ danh một thời này, Văn Khương được đời sau chép vào Nghiệt bế truyện (孽嬖傳) của Liệt nữ truyện.

Với nhan sắc diễm lệ và điển tích trứ danh, Văn Khương được liệt vào một trong Xuân Thu tứ đại mỹ nữ (春秋四大美女) bên cạnh Hạ Cơ, Tức Quy và Tây Thi.

Thân thế

Là dòng dõi Tề Thái công Khương Tử Nha, họ (Tính; 姓) của bà là "Khương" (姜) và "Văn" (文) là hiệu của bà. Thời Tiên Tần, nữ giới thường không xưng tên, chỉ được ghi lại theo hiệu (thường là thụy hiệu, xưng hiệu hoặc tên nước) cùng họ, ví dụ Tây Thi chính là họ Thi và ở thôn Tây nên gọi như vậy, cũng có Tức Quy chính là họ Quy và gả cho Vua nước Tức nên gọi như vậy.

Theo lý giải của Đông Chu liệt quốc, một tiểu thuyết thời nhà Minh, Văn Khương có mặt hoa, mày liễu, nhan sắc tuyệt vời, lại thêm học hành thông thái, thi phú rất giỏi, nên đương thời người ta thường gọi bà là 「Văn Khương」. Căn cứ Sử ký, bà là con gái của Tề Hy công và là em gái của Tề Tương công và Tề Hoàn công. Tề Tương công, chư Chư Hi, là anh cùng cha khác mẹ với Văn Khương, chỉ lớn hơn bà độ vài tuổi, diện mạo phương phi, ra chiều trang nhã, nhưng phải cái tính đam mê sắc dục. Từ nhỏ đến lớn, Chư Nhi và Văn Khương thường lui tới, gần gũi nhau, do đó trong tình anh em lại có ẩn thêm một mối tình luyến ái. Tề Hy công vốn chiều con không bắt buộc giữ gìn khuôn phép, nên về sau sanh điều tệ hại. Hai người đã lén tư thông với nhau.

Khi Văn Khương đến tuổi gả chồng, vì Tề Hy công muốn giao hảo với nước Lỗ nên hứa hôn Văn Khương với Lỗ Hoàn công. Trước đó, Tề Hy công có ý định để Văn Khương kết hôn với Thái tử nước Trịnh là Thái tử Hốt, Thái tử từ chối nói:「"Mỗi người đều có phối ngẫu của riêng mình. Tề Quốc là nước lớn, không thể là phối ngẫu của ta"」. Về sau bộ lạc Bắc Nhung xâm lấn nước Tề, nước Tề cầu viện nước Trịnh, Thái tử Hốt đem binh giải vây. Tề Hy công nhắc lại chuyện này, Thái tử vẫn từ chối, bảo:「"Trước kia không giúp nước Tề, ta cũng chưa dám cưới con gái Tề hầu. Hôm nay phụng mệnh của cha mà tới giải cứu nước Tề đang nguy khốn, lại nhân đó mà cưới vợ về, há chẳng phải dùng sức quân Trịnh để giải quyết chuyện cưới vợ của riêng ta ư? Bá tánh của nước Trịnh sẽ nghĩ ta như thế nào?"」. Liền từ biệt mà đi.

Năm Tề Hy công thứ 22 (709 TCN), cũng rơi vào năm thứ 3 thời Lỗ Hoàn công trị vì, chính Lỗ Hoàn công sai Công tử Huy sang nước Tề đón Văn Khương về, Văn Khương do đó trở thành Phu nhân. Tề Hy công đích thân đưa tiễn bà đến đất Khoan, và Lỗ Hoàn công cũng đến đất Khoan đón vợ. Năm Lỗ Hoàn công thứ 6 (706 TCN), Văn Khương sinh ra một người con trai, người con này có ngày sinh trùng với cha, do đó được đặt tên là Cơ Đồng (姬同). Vì là Đích trưởng tử, Cơ Đồng được lập làm Thái tử của nước Lỗ.

Văn Khương nói lại với Tề Tương công. Nhà vua xấu hổ, tính chuyện giết Lỗ Hoàn công, bèn mời Lỗ Hoàn công đến dự tiệc, chuốc cho Hoàn công uống say. Sau đó, Tương công sai Công tử Bành Sinh (公子彭生) đưa Lỗ Hoàn công ra xe và dặn giết Hoàn công. Bành Sinh bế vua Lỗ lên xe, nhân đó bóp gãy xương sườn giết chết Lỗ Hoàn công. Khi xe vua Lỗ về đến nước, mọi người thấy Hoàn công đã chết, người nước Lỗ trách nước Tề, nói rằng:「"Vua nước tôi luôn kính uy danh Vua nước ngài, không dám an cư, luôn chu toàn về lễ nghi. Nay lễ nghi đã vẹn mà Vua nước tôi bỏ mình, lại không có chỗ nào kêu oan được. Nay thỉnh xin Bành Sinh, đưa hắn về để thanh trừng gièm pha trong các chư hầu"」. Khi đó, Tề Tương công bèn quy tội cho Bành Sinh, ra lệnh giết Bành Sinh để xin lỗi nước Lỗ.

Con trai Văn Khương và Lỗ Hoàn công là Thái tử Cơ Đồng lúc đó 13 tuổi lên nối ngôi, tức là Lỗ Trang công. Chồng chết, trở thành góa phụ, thế là Văn Khương công khai đi lại tư thông với anh ruột Tề Tương công, không thèm về nước Lỗ nữa. Để hai nhà thêm thân, Văn Khương bắt Lỗ Trang công lấy con gái Tương công, đó là Ai Khương. Vì Ai Khương còn nhỏ, Lỗ Trang công bị muộn con, Văn Khương lại ép Trang công lấy cả em gái Ai Khương là Thúc Khương (叔姜).

Năm thứ 12 (686 TCN), Tề Tương công bị hai tướng Liên Xưng (連稱) và Quản Chí Phủ (管至父) làm binh biến giết chết. Dẫu vậy, Văn Khương vẫn lưu lại nước Lỗ, xa xa chỉ huy Lỗ Trang công điều hình chính sự. Không rõ bà qua đời khi nào, nhưng vào tháng giêng đầu năm Lỗ Trang công thứ 22 (672 TCN) có ghi lại việc ["Táng Tiểu quân Văn Khương nước tôi"; 葬我小君文姜], do đó ước chừng bà qua đời vào năm trước.

Ngoài Trang công, Văn Khương và Hoàn công còn có hai người con trai khác tên là Cơ Thúc Nha (姬叔牙) và Cơ Quý Hữu. Lỗ Hoàn công cũng có một người con trai lớn tuổi hơn tên là Khánh Phụ (慶父) với một thê thiếp. Khánh Phụ, Thúc Nha và Quý Hữu là những người sáng lập ra ba gia tộc hùng mạnh mà sau này nằm quyền kiểm soát nước Lỗ. Họ được gọi là Tam Hoàn (三桓) do đều là hậu duệ của Hoàn công. Gia tộc của Quý Hữu, được gọi là Quý Tôn thị (季孙氏), cuối cùng đã lập ra nước Phí (費国).

Đông Chu liệt quốc

Chuyện tình loạn luân giữa Văn Khương và Tề Tương công bị tác giả Phùng Mộng Long lên án trong tác phẩm tiểu thuyết nổi tiếng Đông Chu liệt quốc. Đặc biệt, hình ảnh Văn Khương được mô tả rất dâm dật. Tác giả quy trách nhiệm của việc anh em Văn Khương loạn luân là do Tề Hy công dạy con không nghiêm.

Sau cái chết của Lỗ Hoàn công, nước Lỗ ở vào tình thế khó trong quan hệ với nước Tề lớn mạnh và đang bị chèn ép. Đại phu nước Lỗ đã tham mưu cho vua con Lỗ Trang công cách xử lý vụ việc rất tài tình, khéo léo để giải quyết việc vua nước Lỗ bị chết ở nước ngoài một cách không minh bạch, để giữ thể diện cho nước Lỗ nhỏ bé trong quan hệ với nước Tề lớn mạnh, và trong chừng mực bớt đi cái xấu do chính phu nhân Văn Khương gây ra. Cũng trong sách này, sau khi Tề Tương công qua đời, bà sang nước Cử và tiếp tục tư thông với thầy thuốc nước Cử.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Văn Khương** (chữ Hán: 文姜; ? - 673 TCN), còn gọi là **Tề Văn Khương** (齊文姜), là một công chúa của nước Tề thời Xuân Thu và là phu nhân của Lỗ Hoàn công, mẹ
**Lê Văn Khương** (1914–1941), bí danh **Mười Đen**, là một nhà cách mạng Việt Nam, Bí thư Tỉnh ủy Gia Định, Ủy viên Thường vụ Xứ ủy Nam Kỳ của Đảng Cộng sản Đông Dương.
**Nguyễn Văn Khương** (1924-1970), nguyên là một sĩ quan Bộ binh cao cấp của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên ở trường Sĩ Quan Trừ bị do
**Khương Công Phụ** (, 731 - 805) tự **Đức Văn** () là một tể tướng dưới triều Đường Đức Tông, đỗ trạng nguyên năm 780. ## Tiểu sử Khương Công Phụ xuất thân từ hương
**Khương Hữu Điểu** (sinh ngày 7 tháng 10 năm 1931) là kỹ sư, chuyên viên, công chức và chính khách người Việt Nam, cựu Thứ trưởng Bộ Thương mại và Công Kỹ nghệ, Thứ trưởng
**Khương Hữu Long** (1890 – 23 tháng 2 năm 1983) là bác sĩ và chính khách người Việt Nam, cựu Tổng trưởng Bộ Y tế và Xã hội Cộng hòa tự trị Nam Kỳ dưới
**Vân Môn Văn Yển** (zh. _yúnmén wényǎn/ yünmen wenyen_ 雲門文偃, ja. _ummon bun'en_), 864-949, là một vị Thiền sư Trung Quốc lỗi lạc, khai sáng Vân Môn tông. Sư nối pháp của Tuyết Phong Nghĩa
**Khuông Việt** (匡越, 933-1011) trước tên là **Ngô Chân Lưu** (吳真流), tu chùa Phật Đà, làng Cát Lợi, Thường Lạc (nay là Vệ Linh, Sóc Sơn, Hà Nội). Sư là người Cát Lợi, hậu duệ
**Khương** là một họ của người ở vùng Văn hóa Đông Á, gồm Trung Quốc (chữ Hán: 姜, Bính âm: Jiang), Triều Tiên (Hangul: 강, phiên âm latinh Kang hoặc Gang) và Việt Nam. Tại
**Người Khương** (, Hán-Việt: Khương tộc) là một nhóm sắc tộc tại Trung Quốc. Họ tạo thành một trong số 56 dân tộc tại Trung Quốc, được Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chính thức
**Tuyên Khương** () là vợ vua Vệ Tuyên công thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc. ## Được gả sang nước Vệ Theo Sử ký, Tuyên Khương là con gái của Tề Ly công,
**Khương Đại Vệ** (Hoa phồn thể: 姜大衛, Hoa giản thể: 姜大卫, bính âm: _Jiāng Dàwèi_, tiếng Anh: _David Chiang Dawei_) (sinh ngày 29 tháng 6 năm 1947) là một diễn viên của rất nhiều bộ
**Ai Khương** (chữ Hán: 哀姜, ? - 660 TCN), thị Tề (齐), tính Khương (姜), hiệu là Ai (哀), là phu nhân của Lỗ Trang công thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc. Theo
**Văn học Việt Nam thời Tiền Lê** được nhiều nhà nghiên cứu xem là giai đoạn sơ khởi của nền văn học viết Việt Nam (để phân biệt với văn học dân gian, văn học
**Khương Tề** (chữ Hán: 姜齐), hay **Khương tính Tề quốc** (姜姓齐国), là một giai đoạn lịch sử của nước Tề, một chư hầu nhà Chu ở thời kì Xuân Thu, do Khương Tử Nha được
**Khương Mễ** (1916 – 2004) là nhà quay phim, đạo diễn điện ảnh Việt Nam, ông chủ yếu hoạt động ở dòng phim tài liệu. Khương Mễ là người chế tạo thành công máy in
**Khương Trinh Vũ** (giản thể: 姜贞羽, phồn thể: 姜貞羽, bính âm: _Jiāng Zhēnyǔ_), tên khai sinh là Lưu Nghiêu Hân (刘垚昕) sinh ngày 30 tháng 12 năm 1996 tại Chiêu Thông, Vân Nam, là một
**Nguyễn Văn Điểm**(阮文點), một tướng lĩnh cao cấp của phong trào Tây Sơn. ## Hành trạng **Nguyễn Văn Điểm** là một trong các tướng lĩnh tâm phúc của Thái Đức Hoàng Đế Nguyễn Văn Nhạc.
**Hoàng Khương** tên thật là Nguyễn Văn Khương (sinh 1975-) tại Khánh Hòa là một nhà báo Việt Nam. Ông được biết đến vì có những bài phóng sự chuyên đề trên báo Tuổi Trẻ.
**Khương Hữu Bá** (1930 – 21 tháng 12 năm 2015) là cựu sĩ quan Hải quân Việt Nam Cộng hòa cấp bậc Đại tá. ## Binh nghiệp Khương Hữu Bá sinh năm 1930 tại Vĩnh
**_Vân Môn Khuông Chân Thiền sư quảng lục_** (zh. 雲門匡眞禪師廣錄) - còn có tên _Đại Từ Vân Khuông Chân Hoằng Minh Thiền sư ngữ lục_, _Vân Môn Văn Yển Thiền sư quảng lục_, _Vân Môn
thumb|right **Văn hóa Ngưỡng Thiều** (tiếng Trung: 仰韶文化, bính âm: Yǎngsháo wénhuà) là một văn hóa thời kỳ đồ đá mới đã tồn tại rộng khắp dọc theo miền trung Hoàng Hà tại Trung Quốc.
**Lễ hội Hạn Khuống** là một lễ hội của người đồng bào dân tộc Thái, Tây Bắc là một hình thức sinh hoạt văn hóa truyền thống, bao gồm nhiều thể loại (hát, kể chuyện)
**Vũ Minh Khương** (sinh năm 1959) là Giáo sư, Tiến sĩ người Việt Nam. Ông hiện là giảng viên Trường Chính sách công Lý Quang Diệu (Đại học Quốc gia Singapore), thành viên Tổ Tư
**Trần Văn Khê** (24 tháng 7 năm 1921 – 24 tháng 6 năm 2015), còn có nghệ danh **Hải Minh**, là một nhà nghiên cứu văn hóa, âm nhạc cổ truyền nổi tiếng ở Việt
**Tạ Văn Phụng** (chữ Hán: 謝文奉; ? - 1865), còn có các tên là **Bảo Phụng,** **Lê Duy Phụng** (黎維奉), **Lê Duy Minh** (黎維明 ## Cuộc đời Tạ Văn Phụng sinh tại huyện Thọ Xương,
**Lê Văn Hưng** (1933 - 1975) nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên tại trường Sĩ
**Khu di chỉ văn hóa Sa Huỳnh** là cụm di chỉ khảo cổ tại thị xã Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, nơi phát hiện ra nền văn hóa Sa Huỳnh. Cụm di chỉ này gồm
**Từ Văn Bê** (1931-2008) nguyên là một tướng lĩnh Không Quân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ trường Võ Bị Không quân Pháp. Tốt nghiệp về
**Huỳnh Văn Thớm** (1916–1989), bí danh **Ba Súng**, là nhà cách mạng Việt Nam, từng đảm nhiệm vai trò Bí thư Tỉnh ủy Gia Định, Phó ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Thành ủy Thành
DƯỠNG PHỤC HỒI SAU PHUN XĂM - COLLAGEN GOLD 24K SHUOPHIYA Bạn không thể ngờ được rằng: chỉ với lọ 8ml này môi khách sẽ căng mịn và bóng mướt, màu sau bong được kích
Một số đặc trưng của văn hóa Việt Nam: [[Phụ nữ Việt Nam với áo tứ thân, áo dài, nón quai thao đang chơi các nhạc cụ , Hắc cô như đàn bầu, tam thập
**Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1954** gắn liền với hai sự kiện có ảnh hưởng căn bản và sâu rộng đến mọi mặt của đời sống chính trị, xã hội Việt Nam:
**_Lục Vân Tiên_** (chữ Nôm: 蓼雲仙) là một tác phẩm truyện thơ Nôm của Nguyễn Đình Chiểu, được sáng tác theo thể lục bát vào đầu những năm 50 của thế kỷ 19. Đây là
**Trần Văn Giàu** (11 tháng 9 năm 1911 – 16 tháng 12 năm 2010) là nhà hoạt động cách mạng lão thành, nguyên Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ, nguyên Chủ tịch Ủy ban kháng
**Võ Văn Ngân** (1902-1938) là một nhà cách mạng Việt Nam, lãnh đạo cao cấp của phong trào cộng sản Việt Nam thời kỳ đầu. ## Tiểu sử Võ Văn Ngân sinh năm 1902 trong
phải|Mô hình minh họa cư dân Văn hóa Hòa Bình. **Văn hóa Hòa Bình** được giới khảo cổ học chính thức công nhận từ ngày 30 tháng 1 năm 1932, do đề xuất của Madeleine
**Từ** (, đôi khi cũng được viết là 辭 hay 辞) là một thể loại văn học, hình thành vào đời Đường, và phát triển mạnh vào đời Tống ở Trung Quốc. ## Nguồn gốc
nhỏ|phải|Minh họa về [[Quái điểu Roc (Rukh/رخ) của vùng Trung Đông, chúng có thể nguyên tác từ những con chim voi khổng lồ từng sinh sống trên trái đất]] nhỏ|phải|Một chú chim nho nhỏ nhỏ|Chi
**Phan Văn Khỏe** (1901–1946), bí danh **Tư Mỹ**, là một nhà cách mạng Việt Nam, từng đảm nhiệm vai trò Bí thư Tỉnh ủy Mỹ Tho, Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ của Đảng Cộng
**Ca Văn Thỉnh** (sinh năm 1902, mất ngày 21 tháng 3 năm 1987) là một Giáo sư, nhà giáo dục, nhà thơ, chính trị gia, nhà sử học, nhà nghiên cứu văn học Việt Nam.
**Ván bài lật ngửa** là bộ phim nhựa trắng đen 8 tập về đề tài gián điệp do Xí nghiệp phim Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh (nay là Hãng phim Giải Phóng) sản
## Danh sách theo niên đại ### Tây chu xuân thu * Khương Tử Nha (tk 12 tcn) * Chu Công (tk 12 tcn) * Khổng Tử (551 - 479 tcn) ### Thời Chiến Quốc,
**Trung Quốc** tham gia Thế vận hội Mùa đông 2014 tại Sochi, Nga từ 7–23 tháng 2 năm 2014. ## Bảng huy chương ## Trượt tuyết Alpes Theo chỉ tiêu phân phối được đưa ra
**Nguyễn Văn Kha** (1922–2018) là một nhà cách mạng và chính khách Việt Nam, từng giữ chức Bộ trưởng Bộ Cơ khí và Luyện kim Việt Nam, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà
**Huỳnh Dị** (chữ Hán 黄易; 15 tháng 3 năm 1952 – 5 tháng 4 năm 2017) là một nhà văn Hồng Kông. Ông nổi danh như là người khai sáng thể loại tiểu thuyết huyền
**Đặng Văn Thượng** (1926-2013) một chính khách Việt Nam, từng giữ chức Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Tây Ninh. ## Sự nghiệp Ông tên thật là **Đặng Văn Khương**,
**Quan Vân Trường** (chữ Hán phồn thể: 關雲長, chữ Hán giản thể: 关云长, bính âm: Guān Yúncháng, tựa tiếng Anh: **The Lost Bladesman**) là một bộ phim điện ảnh Trung Quốc - Hồng Kông được
**Phúc Vũ Và Phiên Vân** () là một bộ phim truyền hình Hồng Kông do TVB phát hành ngày 05/01/2006. Phim dựa trên tiểu thuyết của nhà văn Hoàng Dịch. Phim dài 40 tập với
**Nguyễn Đình Toàn** (sinh năm 1986) là một vận động viên Taekwondo người Việt Nam. Anh là vô địch Đông Nam Á , vô địch châu Á và vô địch thế giới nội dung biểu