✨Trần Văn Giàu

Trần Văn Giàu

Trần Văn Giàu (11 tháng 9 năm 1911 – 16 tháng 12 năm 2010) là nhà hoạt động cách mạng lão thành, nguyên Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ, nguyên Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Nam Bộ. Ông còn là giáo sư, nhà khoa học, nhà nghiên cứu lịch sử, triết học và Nhà giáo Nhân dân Việt Nam.

Sự nghiệp cách mạng

Thời thanh niên sôi nổi

Ông sinh ngày 6 tháng 9 năm 1911, quê quán tại xã An Lục Long, huyện Châu Thành, tỉnh Tân An (nay là tỉnh Long An), sinh trưởng trong một gia đình điền chủ giàu có. Trong gia đình, ông có tên là Mười Ký, tuy nhiên nhiều người biết ông với tên Sáu Giàu.

Do gia đình có điều kiện, nên vào năm 1926, ông lên Sài Gòn, theo học tại trường Chasseloup Laubat. Năm 1928, sau khi tốt nghiệp Tú tài, ông được gia đình cho sang Pháp du học tại Đại học Toulouse với lời hứa "mang về hai bằng tiến sĩ".

Trở thành nhà cách mạng

Trở về nước, cha ông chỉ nói: "Tận trung cũng là tận hiếu"

Ngày 23 tháng 4 năm 1940, ông mãn hạn tù, được tha, nhưng bị bắt lại sau mấy ngày và bị đưa đi an trí ở trại Tà Lài. Cùng chung chuyến áp giải với ông còn có Tào Tỵ, nhà báo Nguyễn Công Trung và một người lính áp tải là Trương Văn Giàu. Tại Tà Lài, ông một lần nữa được cử làm Tổng đại diện.

Cuối năm 1941, ông tham gia chỉ đạo một số anh em tù chính trị tổ chức vượt ngục Tà Lài. Bản thân ông tham gia chuyến vượt ngục đợt 2 vào đầu tháng 3 năm 1942, gồm 8 người, cùng với các ông Châu Văn Giác, Trần Văn Kiệt, Dương Văn Phúc, Trương Quang Nhâm, Nguyễn Công Trung, Nguyễn Văn Đức và Tô Ký. Cuộc đào thoát thành công, sau đó phân tán thành nhiều hướng. Trần Văn Giàu sau nhiều lần di chuyển, tìm cách bắt lại liên lạc và trở lại hoạt động tại Sài Gòn.

Lãnh đạo chớp thời cơ

Từ ngày 13 đến 15 tháng 10 năm 1943, một số đại biểu các tổ chức Cộng sản các tỉnh, thành Nam Kỳ họp hội nghị ở Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho quyết định tái lập Xứ ủy Nam Kỳ. Trần Văn Giàu vì không đến tham dự được, hội nghị bầu ông Dương Văn Phúc (Dương Quang Đông) làm Bí thư, tuy nhiên ông Phúc tuyên bố chỉ tạm nhận chức (thực tế đảm nhiệm đến 9 tháng 3 năm 1945) và sẽ trao lại chức vụ này cho ông Giàu. Hội nghị đồng ý.

Trên cương vị Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ, trong hoàn cảnh không liên lạc được với Trung ương ngoài Bắc, không hay biết việc Nguyễn Ái Quốc đã về nước, triệu tập Hội nghị Trung ương lần thứ 8 và thành lập Việt Minh, ông "Không đành chịu ngồi chờ, bất đắc dĩ bọn tôi phải tự vạch ra một đường lối cách mạng" cho Nam Kỳ. Trong một thời gian ngắn, ông cùng các đồng chí tích cực hoạt động xây dựng cơ sở, nhằm có thể tập hợp lực lượng lớn chớp thời cơ đã được nhận định gần kề. Ông chủ trương: "Ta phải mạnh hơn tất cả các chánh đảng và giáo phái thân Nhật cộng lại thì mới mong đem chính quyền về tay nhân dân được". Trên cơ sở đó, Xứ ủy đã:

  • Nhanh chóng khôi phục hệ thống tổ chức Đảng các cấp, đặc biệt, với các cơ sở tại Sài Gòn – Chợ Lớn. Đích thân ông phụ trách Ban cán sự thành phố Sài Gòn – Chợ Lớn.
  • Phục hồi tổ chức công đoàn, thành lập Tổng công đoàn Nam Kỳ (tháng 4 năm 1944), trong nửa năm, phát triển nhanh chóng 40 công đoàn cơ sở với 5.000 đoàn viên.
  • Tập hợp nhiều trí thức, sinh viên, nhà công thương vào một số tổ chức như Tân dân chủ đoàn, Hội truyền bá quốc ngữ, nhóm báo Thanh Niên...
  • Xuất bản báo Tiền Phong và các sách bỏ túi như "Việt Nam trên đường độc lập", "Rạng đông của dân tộc"..., mở các lớp huấn luyện chính trị do chính ông trực tiếp là giảng viên. Ông nhận định: "Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân; riêng lực lượng của Đảng không làm nổi cách mạng; phải có sự tham gia, sự nổi dậy của hàng triệu đồng bào". Hội nghị đồng ý tiếp tục chuẩn bị chu đáo, chờ tin từ Hà Nội, dời ngày khởi nghĩa đến ngày 18.

Ngày 17, lễ ra mắt của 50.000 đoàn viên Thanh niên Tiền phong được tổ chức tại Sài Gòn, một hình thức biểu dương các lực lượng do Xứ ủy kiểm soát. Tuy vậy, các thành viên Xứ ủy đồng ý hoãn lại thời điểm khởi nghĩa. Thay vào đó, ngày 19, các lãnh đạo Mặt trận Việt Minh được Xứ ủy tổ chức "ra công khai", đã đưa ông lên vị thế nhạc trưởng cuộc khởi nghĩa giành chính quyền chỉ vài ngày sau đó.

Sau khi nhận được tin Hà Nội khởi nghĩa thắng lợi, ngay sáng ngày 20 tháng 8, hội nghị Chợ Đệm lần thứ hai tiếp tục bàn việc khởi nghĩa, dự định sẽ khởi nghĩa ngay chiều hôm đó. Tuy nhiên, vẫn có đại biểu vẫn có ý e ngại việc quân Nhật vẫn còn một lực lượng có thể trấn áp tại Sài Gòn. Ông Giàu đề nghị chọn Tân An làm thí điểm khởi nghĩa và cử đại biểu trở về tỉnh phát động khởi nghĩa.

Khởi nghĩa ở Tân An thành công tối ngày 22 tháng 8. Hội nghị Chợ Đệm lần thứ ba tối ngày 23 tháng 8 đã lập tức chỉ định lập Ủy ban Hành chính lâm thời cho toàn Nam Bộ, gọi tắt là Lâm ủy Nam Bộ, với Trần Văn Giàu làm Chủ tịch. Chiều 24 tháng 8, lực lượng Thanh niên Tiền phong vũ trang dưới quyền lãnh đạo của Xứ ủy Nam Kỳ ở Tân An, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh khởi nghĩa giành chính quyền và sau đó dồn về Sài Gòn. Ngày 25 tháng 8, đến lượt Sài Gòn nổ ra cuộc biểu tình lớn và hầu hết các cơ sở quản trị lọt vào quyền kiểm soát của Lâm ủy Nam Bộ.

Nhạc trưởng Nam Bộ

Tại Lễ đài Độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945, Lâm ủy Nam Bộ đã tổ chức buổi tiếp sóng Đài Tiếng nói Việt Nam và phát thanh lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập qua hệ thống loa phóng thanh nhưng do kỹ thuật, việc tiếp sóng không thành. Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, Thủ lãnh Thanh niên Tiền phong, Bộ trưởng Y tế trong Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc tuyên thệ của Chính phủ. Nhà báo Nguyễn Văn Nguyễn thay mặt Xứ ủy Nam Kỳ và Kỳ bộ Việt Minh kêu gọi ủng hộ Việt Minh. Và Trần Văn Giàu thay mặt cho Lâm ủy Nam Bộ ứng khẩu bài diễn văn chào mừng ngày lễ Độc lập. Khi đó, ông mới vừa 34 tuổi.

Trước đó, song song với Xứ ủy Nam Kỳ được thành lập lại từ tháng 10 năm 1943 do ông làm Bí thư, còn có một tổ chức của Đảng Cộng sản Đông Dương khác hoạt động độc lập. Để phân biệt, các nhà nghiên cứu lịch sử thường gọi là Xứ ủy Giải phóng, vì cơ quan ngôn luận của tổ chức này là báo Giải phóng, hoặc Việt Minh cũ, còn Xứ ủy do ông Giàu làm bí thư thường gọi là Xứ ủy Tiền phong, vì cơ quan ngôn luận của nó là báo Tiền phong, còn gọi là Việt Minh mới.

Tháng 1 năm 1941 Xứ ủy Nam Kỳ được tái lập, Phan Văn Khỏe làm Bí thư, ra báo Giải phóng. Sau khi Xứ ủy Nam Kỳ cũ bị chính quyền thực dân bắt bớ làm vô hiệu hóa từ giữa cuối năm 1941, năm 1942 Liên tỉnh ủy miền Đông thành lập, sau đó là Ban cán sự miền đông Nam Kỳ năm 1943 và năm 1944 là Kỳ bộ Việt Minh Nam Kỳ với một số đảng viên Cộng sản gồm Trần Văn Vi, Lê Hữu Kiều, Lê Minh Định, Trần Văn Trà, Chế (thợ giày), Bùi Văn Dự, Trần Văn Già, Tô Ký... trong nhóm xuất bản bí mật tờ báo Giải phóng, hoạt động độc lập và vẫn mang danh nghĩa Kỳ bộ. Nhóm dự định tổ chức lại Xứ ủy Nam Kỳ với thì trụ sở tại Sài Gòn, tuy nhiên do hoàn cảnh các thành viên chủ chốt bị truy bắt, phải liên tục di chuyển nên thường bị mất liên lạc, không triệu tập được.

Sau khi thành lập Xứ ủy Nam Kỳ mới, ông Giàu đã mời bà Nguyễn Thị Thập, một thành viên của nhóm Giải phóng, cùng tham gia Xứ ủy. Tuy nhiên, do sự khác nhau về cách thức tổ chức nên việc thống nhất lãnh đạo không thành. Nhóm Giải phóng vẫn tiếp tục hoạt động độc lập và xây dựng cơ sở riêng. Tháng 11 năm 1944, hầu hết thành viên của nhóm Giải phóng đều bị chính quyền thực dân bắt giam, nhà in cũng bị phá vỡ. Sau khi Nhật đảo chính Pháp tại Đông Dương, nhiều thành viên lợi dụng cơ hội thoát khỏi nhà giam.

Ngày 20 tháng 3 năm 1945, nhóm Giải phóng họp tại Xoài Hột (Mỹ Tho) và lập Xứ ủy Nam Kỳ lâm thời và bầu Dân Tôn Tử (tức Trần Văn Vi) làm bí thư. Tháng 5 năm 1945, Xứ ủy lâm thời họp tại Bà Điểm (Hóc Môn) lập ra Xứ ủy chính thức, gọi là Ban cán sự Nam Kỳ, có Nguyễn Thị Thập, Trần Văn Vi, Hoàng Dư Khương, do Lê Hữu Kiều làm bí thư.

Theo nhận định của Tổng Bí thư Trường Chinh: Đảng bộ Nam Kỳ hiện đang gặp nguy cơ ấy. Trước cuộc "đảo chính" mồng 9 tháng 3 năm 1945, các đồng chí Hậu Giang ra báo Tiền phong đề xướng khẩu hiệu "Kháng Nhật, kiến quốc" chủ trương rút khẩu hiệu chống Pháp, lấy cớ là để bắt tay Pháp dân chủ, đánh phát xít Nhật. Các đồng chí Tiền Giang lại viết trong báo Giải phóng, chửi nhóm "Tiền phong" là "thân Pháp", và cho được biểu dương tinh thần bài Pháp, các đồng chí ấy vẫn giữ khẩu hiệu "đánh đuổi phát xít Nhật, Pháp" sau cuộc "đảo chính" ngày 9 tháng Ba (Xem Giải phóng, tháng 4 năm 1945). Tháng 7 năm 1945, một ban hành động chung của hai Xứ ủy được thành lập, tuy nhiên hai Xứ ủy vẫn hoạt động riêng lẻ. Tháng 8 năm 1945 hai Xứ ủy sáp nhập làm một, Ung Văn Khiêm làm Bí thư.

Nền độc lập chỉ chưa tròn 1 tháng, và lực lượng dưới quyền kiểm soát của Lâm ủy tuy đông nhưng không có nhiều kinh nghiệm quản lý. Tình trạng vô chính phủ xảy ra ở nhiều nơi. Các tổ chức chính trị khác cũng độc lập phát triển thế lực riêng. Việc có cùng lúc 2 tổ chức Xứ ủy ở Nam Bộ dẫn đến việc giảm đi khả năng và uy tín của Đảng Cộng sản tại Nam Bộ, thậm chí đã có những mâu thuẫn và xung đột giữa 2 tổ chức này. Trung ương cử Hoàng Quốc Việt và Cao Hồng Lãnh vào nam (có mặt tại Sài Gòn từ 27 tháng 8) để thống nhất Xứ ủy, và hợp nhất Thanh niên Tiền phong và Thanh niên Cứu quốc, lập Lâm Ủy hành chính Nam Bộ mới ngày 7 tháng 9, Phạm Văn Bạch làm Chủ tịch và Trần Văn Giàu làm phó chủ tịch kiêm kiêm ủy trưởng quân sự, mời thêm một số nhân vật ngoài Việt Minh vào chính quyền. Theo Hoàng Quốc Việt "Chủ trương của chúng tôi và Xứ uỷ Nam Bộ lúc đó là phải chọn một số nhân sĩ trí thức có uy tín, chưa phải đảng viên cộng sản làm Chủ tịch Nam Bộ, vì tình hình Nam Bộ lúc này rất cần cả về đối nội lẫn đối ngoại".

Trong khi đó, từ ngày 12 tháng 9 năm 1945, quân Pháp liên tục đổ vào Sài Gòn, thường xuyên khiêu khích hoặc đặt ra các điều kiện bất bình đẳng, một mặt kích động xung đột giữa các tổ chức, tìm cớ can thiệp vũ trang. Trước tình hình đó, chính quyền Lâm ủy non trẻ yếu ớt chỉ còn cách trì hoãn để chuẩn bị kháng chiến.

Đêm 22 tháng 9, quân Pháp nổ súng chiếm trụ sở Lâm ủy Nam Bộ, Quốc gia Tự vệ cuộc và một số cơ sở chính quyền Lâm ủy khác. Một mặt, do chuẩn bị từ trước, các lãnh đạo của Lâm ủy lập tức thoát khỏi sự truy bắt và chỉ đạo các đội vũ trang phản công. Ngày 23 tháng 9 năm 1945, trong hội nghị tại nhà số 629 đường Cây Mai (nay là đường Nguyễn Trãi), có các thành viên: Hoàng Quốc Việt, Cao Hồng Lãnh (của Tổng bộ Việt Minh), Ung Văn Khiêm, Nguyễn Văn Nguyễn (của Xứ uỷ); Phạm Ngọc Thạch, Ngô Tấn Nhơn (của Ủy ban nhân dân); Huỳnh Văn Tiểng, Trần Văn Giàu (của Ủy ban Kháng chiến),... ông được cử làm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ, phát Lời kêu gọi Nam Bộ kháng chiến.

(Theo hồi ký của các ông Hoàng Quốc Việt, Tô Ký, bà Nguyễn Thị Thập (Đoàn Giỏi ghi) thì còn có một bản hiệu triệu khác, có trích trong "Đất rừng phương Nam" năm 1957)

Cùng với các đồng chí của mình, ông đã làm hết sức mình, ra các biện pháp để tập trung lực lượng liên hiệp chống Pháp, cứng rắn trấn áp các nhóm chính trị vũ trang có xu hướng ly khai Lâm ủy. Chính từ những chỉ thị này, ông thường bị những người đối lập xem là tàn bạo, lạnh lùng và vô cảm.

Giữa tháng 10, Trung ương ra quyết định thành lập Xứ ủy mới, thành lập trên cơ sở thống nhất giữa hai nhóm Cộng sản Tiền Phong và Giải Phóng, lấy tên gọi Xứ ủy Nam Bộ, do ông Tôn Đức Thắng làm Bí thư (15 tháng 10 – 25 tháng 10 ông Lê Duẩn được cử làm Bí thư). Các tổ chức Tiền phong và đơn vị vũ trang đều được sáp nhập vào Việt Minh, dùng danh xưng thống nhất trên toàn quốc. Sự phân biệt Việt Minh cũ và Việt Minh mới bấy giờ mới chấm dứt hoàn toàn.

Trung ương cũng điều động ông và bác sĩ Phạm Ngọc Thạch nguyên thủ lĩnh Thanh niên Tiền phong (được cử Bộ trưởng Bộ Y tế Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa), và Dương Bạch Mai ra Hà Nội. Tại Hà Nội, ông nhiều lần diễn thuyết dàn xếp mâu thuẫn Việt Minh và Quốc dân đảng. Sau đó ông đề đạt nguyện vọng: cho phép ông trở lại chiến trường Nam bộ, nếu không được thì cho ông sang Campuchia và Thái Lan lập một căn cứ hậu cần cho Nam Bộ. Nguyện vọng thứ hai của ông được chấp thuận. Từ Thái Lan, ông vừa vận động nhiều thanh niên Việt kiều về Nam bộ chiến đấu, vừa mua sắm vũ khí tiếp tế cho quân dân Nam Bộ.

Sự nghiệp giáo dục và nghiên cứu

Đầu năm 1947, ông được điều trở về chiến khu Việt Bắc; từ 3/1950 ông giữ chức Tổng Giám đốc Nha Thông tin Việt Nam thay Bác sĩ Nguyễn Tấn Gi Trọng. Năm 1951, ông tham gia Bộ Giáo dục, xây dựng ngành dự bị đại học và sư phạm cao cấp.

Tháng 11 năm 1954, Đại học Sư phạm Văn khoa và Đại học Sư phạm Khoa học được thành lập, ông trở thành Bí thư Đảng ủy đầu tiên của Đảng bộ trường, kiêm giảng dạy các môn khoa học Chính trị, Triết học, Lịch sử thế giới và Lịch sử Việt Nam (được coi là người sáng lập những ngành khoa học này của nền Khoa học Sư phạm Việt Nam hiện đại).

Năm học 1955, 1956, ông được Nhà nước phong học hàm Giáo sư đợt đầu tiên. Giữa năm 1956, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội được thành lập, ông được cử giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội nhưng vẫn tham gia đào tạo ở Đại học Sư phạm Hà Nội.

Những năm 1962–1975, ông công tác tại Viện Sử học thuộc Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam (nay là Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam).

Từ năm 1975 đến nay, ông tiếp tục nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học xã hội.

GS Trần Văn Giàu đã bán ngôi nhà của mình lấy 1.000 lượng vàng gửi ngân hàng để làm Quỹ Trần Văn Giàu. Từ lãi suất của 1.000 lượng vàng này, hằng năm Giải thưởng Trần Văn Giàu được trao cho các công trình nghiên cứu ở trên hai lĩnh vực: Lịch sử và Lịch sử tư tưởng liên quan đến cực Nam Trung Bộ (tỉnh Bình Thuận) và Nam Bộ Việt Nam.

Ông qua đời lúc 17 giờ 20 phút ngày 16 tháng 12 năm 2010 tại Bệnh viện Thống Nhất, Thành phố Hồ Chí Minh, chỉ 3 tháng sau lễ mừng thọ 100 tuổi.

Gia đình và học trò

Trần Văn Giàu một đời hoạt động cách mạng, không con cái. Tuy vậy, trong sự nghiệp giáo dục của mình, ông đã được xem là thầy của nhiều nhân vật nổi tiếng:

  • Hoàng Như Mai
  • Đặng Huy Vận
  • Đinh Xuân Lâm
  • Phan Huy Lê
  • Hà Văn Tấn
  • Trần Quốc Vượng

Danh hiệu và Giải thưởng

  • Huy hiệu 80 năm tuổi Đảng (được Thành ủy TPHCM trao ngày 24 tháng 8 năm 2009)
  • Huân chương Hồ Chí Minh và nhiều huân chương cao quý khác.
  • Giáo sư (1956)
  • Nhà giáo Nhân dân (1992).
  • Anh hùng Lao động thời kì đổi mới (2003).
  • Toàn bộ công trình về Lịch sử Việt Nam gồm 5 bộ, 18 tập (1956–1957) của Giáo sư Trần Văn Giàu được Nhà nước trao Giải thưởng Hồ Chí Minh, đợt 1, năm 1996.

Tác phẩm

  • Hồi ký 1940–1945 Trần Văn Giàu .
  • Triết học phổ thông
  • Triết học và tư tưởng
  • Biện chứng pháp (1995).
  • Vũ trụ quan (1995).
  • Duy vật lịch sử (1995).
  • Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam thế kỷ 19 đến Cách mạng tháng Tám. (3 tập)
  • Giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam (1980).
  • Sự khủng hoảng của chế độ nhà Nguyễn trước 1858.
  • Lịch sử chống quân xâm lăng (3 tập, 1956–1957).
  • Lịch sử Giai cấp công nhân Việt Nam.
  • Lịch sử cận đại Việt Nam.
  • Miền Nam giữ vững thành đồng.
  • Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh.
  • Giai cấp công nhân Việt Nam (2 tập).

Vinh danh

Tên ông được đặt cho một ngôi trường tại quận Bình Thạnh, TP Hồ Chí Minh. Ngày 01/09/2012: 700 học sinh đầu tiên của trường PTTH Trần Văn Giàu đã tham gia lễ khai giảng năm học mới đầu tiên của trường. Đây là ngôi trường có diện tích 1,5ha và 45 phòng học.

Giải thưởng Trần Văn Giàu (tên đầy đủ Giải thưởng khoa học Trần Văn Giàu) là giải thưởng do GS Trần Văn Giàu sáng lập năm 2002 với mục tiêu trao giải cho các tác giả với các công trình nghiên cứu về lịch sử và lịch sử tư tưởng tại Nam Bộ và khu vực cực Nam Trung Bộ. Giải thưởng được Ủy ban giải thưởng Trần Văn Giàu tổ chức và trao hằng năm.

Ngày 8 tháng 8 năm 2012, theo Quyết định số 34/2012/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Tỉnh lộ 10B cùng với một đoạn đường Tỉnh lộ 10 được đặt tên là đường Trần Văn Giàu. Tuyến đường này dài 14 km, điểm đầu tại đường Tên Lửa (quận Bình Tân) và điểm cuối tại ranh giới Thành phố Hồ Chí Minh – Long An.

Ngày 19 tháng 6 năm 2024, theo Quyết định số 6027/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh Long An có hiệu lực từ ngày 1 tháng 9 năm 2024, Trường Trung học phổ thông chuyên Long An được đổi tên thành Trường Trung học phổ thông chuyên Trần Văn Giàu.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trần Văn Giàu** (11 tháng 9 năm 1911 – 16 tháng 12 năm 2010) là nhà hoạt động cách mạng lão thành, nguyên Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ, nguyên Chủ tịch Ủy ban kháng
**Giải thưởng Trần Văn Giàu** (tên đầy đủ **Giải thưởng khoa học Trần Văn Giàu**) là giải thưởng do GS Trần Văn Giàu sáng lập năm 2002 với mục tiêu trao giải cho các tác
Bản đồ Gia Định 1815 Trần Văn Học vẽ, đã được việt hóa Bản đồ Gia Định 1815 Trần Văn Học vẽ, do nhà sử học Nguyễn Đình Đầu việt hóa và thêm vào nhiều
**Trần Văn Thảo** (sinh ngày 23 tháng 04 năm 1992), biệt danh **_The Trigger_** hay **_The Trigger Thao Tran_** là một võ sĩ chuyên nghiệp người Việt. Lĩnh vực của anh là bộ môn Boxing
**Trận Đại đồn Chí Hòa**, hay còn được gọi là **Trận Đại đồn Kỳ Hòa**, là một trận đánh xảy ra tại Sài Gòn, Nam Kỳ vào 4 giờ sáng ngày 24 tháng 2 năm
**Trần Văn Kỷ** (chữ Hán: 陳文紀, ?- 24 tháng 12 năm 1801), còn có tên là **Trần Chánh Kỷ** là một công thần dưới triều Tây Sơn; và là bậc danh sĩ ở Nam Hà,
**Trận Biên Hòa** hay **Pháp đánh chiếm Biên Hòa** là một phần của cuộc chiến tranh Pháp-Việt 1858-1884 xảy ra từ ngày 14 tháng 12 năm 1861 và kết thúc vào ngày 7 tháng Giêng
**Trận Sơn Tây (1883)**, là trận đánh mà quân đội viễn chinh Pháp tấn công vào thành cổ Sơn Tây, diễn ra từ ngày 13 tháng 12 năm 1883, kết thúc vào tối ngày 16
**Trần** () là một họ người Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Việt Nam, Hàn Quốc, Singapore và một số nơi khác trên thế giới. Họ Trần là họ phổ biến nhất tại miền Nam
Chân dung Trần Chánh Chiếu **Trần Chánh Chiếu** (1868-1919), còn gọi là **Gibert Trần Chánh Chiếu** (gọi tắt là **Gibert Chiếu**), hiệu **Quang Huy**, biệt hiệu **Đông Sơ**, các bút danh: **Kỳ Lân Các, Nhựt
**Trận Bắc Ninh** hay **Trận Pháp đánh thành Bắc Ninh** là một phần của cuộc chiến tranh Pháp-Việt 1858-1884 diễn ra từ ngày 7 tháng 3 năm 1884 và kết thúc vào ngày 12 tháng
**Trần Văn Truyền** (sinh ngày 20 tháng 10 năm 1950, bí danh **_Ba Truyền_**) là một chính khách Việt Nam. Ông từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong Đảng Cộng sản Việt Nam và
**Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn** ( – **VNU-USSH**) là một trường đại học thành viên của Đại học Quốc gia Hà Nội. Trụ sở chính của Trường đặt tại số
**Nguyễn Đình Đầu** (12 tháng 3 năm 1920 - 20 tháng 9 năm 2024) là một nhà nghiên cứu nổi tiếng trong lĩnh vực địa lý, lịch sử Việt Nam. Ông được biết nhiều với
**Trần Văn Phán** (1910-1942) là một nhà cách mạng Việt Nam. Ông từng giữ chức Ủy viên thường vụ Tỉnh ủy Bạc Liêu, là một trong những nhân vật quan trọng trong cuộc Khởi nghĩa
**Trận Lạng Sơn (1885)** hay **Pháp đánh Lạng Sơn** là một chiến dịch gồm vài trận giao tranh lớn nhỏ giữa quân Pháp và quân Thanh, đã diễn ra từ đầu tháng 2 năm 1885
**Trần Văn Thuyết** (sinh năm 1960), có biệt danh là **Thuyết buôn vua**, **Thuyết chăn voi** từ Vụ án Năm Cam và đồng phạm. Được biết đến như một doanh nhân giàu có bậc nhất
**Trần Văn Trạch** (tên thật: **Trần Quang Trạch**, 1924 - 1994) là một nhạc sĩ và ca sĩ nổi danh từ trước năm 1975 tại Việt Nam Cộng hòa. Với mái tóc dài cùng giọng
**Trần Văn Đôn** (1917-1998) nguyên là một cựu tướng lĩnh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ trường Sĩ quan Trừ bị ở Pháp, sau đó được
**Trần Văn Bảo** (chữ Hán: 陳文寶, 1524 - 1611) là một danh sĩ Việt Nam. Ông đỗ Trạng nguyên khoa Canh Tuất, niên hiệu Cảnh Lịch thứ 3 (1550), đời Mạc Tuyên Tông, làm quan
**Trần Đức Thảo** (26 tháng 9 năm 1917 – 24 tháng 4 năm 1993) là một triết gia người Việt. Các công trình của ông là những nỗ lực hợp nhất hiện tượng học và
**Trần Văn Hữu** (1896 – 1984) là Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao của chính phủ Quốc gia Việt Nam từ tháng 5 năm 1950 đến tháng 6 năm 1952. ## Tiểu sử ###
**Trận thành Gia định** hay Trận Gia Định là một trận chiến diễn ra vào rạng sáng ngày 17 tháng hai năm 1859, giữa liên quân Pháp và Tây Ban Nha với quân đội vương
**Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch** là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao, du lịch và báo
Trong quá trình xâm lược Việt Nam nửa cuối thế kỷ 19, quân Pháp đánh chiếm thành Vĩnh Long cả thảy hai lần. Trận đầu diễn ra từ ngày 20 cho đến ngày 23 tháng
**Trần Văn Nam** (sinh ngày 30 tháng 8 năm 1963) là một chính khách Việt Nam. Ông từng là Ủy viên Trung ương Đảng khóa XIII, Bí thư Tỉnh ủy Bình Dương. Ông cũng từng
Những người nông dân ở Cao Lãnh nói chung và ông Trần Văn Ẩn nói riêng, không chỉ là những người lao động chăm chỉ, mà còn là biểu tượng của sự tâm huyết với
**Phạm Văn Bạch** (1910 – 1986), tên thường gọi là **Hai Bạch**, là Giáo sư, Luật sư, ông nguyên là Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Hành chánh Nam Bộ, Chánh án Tòa án nhân
**Trận Bắc Lệ** hay còn gọi là **Trận cầu Quan Âm**, đã diễn ra từ ngày 23 tháng 6 năm 1884 và kết thúc vào ngày 3 tháng 7 cùng năm, là một trận giao
**Trần Văn Túy** (sinh năm 1957) là chính khách Việt Nam. Ông từng là Phó Trưởng ban Tổ chức Trung ương Đảng. Ông từng là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI,
**Mặt trận Quốc gia Thống nhứt** là một liên minh chính trị thành lập ngày 14 tháng 8 năm 1945, gồm các đảng phái quốc gia tại Nam Bộ do Hồ Văn Ngà vận động
**Trận Gia Quất-Gia Lâm** là một trận đánh trong chiến dịch Bắc Kỳ 1883, giữa quân đội Viễn chinh Pháp và quân đội nhà Nguyễn diễn ra vào các ngày 27-28 tháng 3 năm 1883
**Nguyễn Văn Giàu** (sinh 1932), nguyên là một sĩ quan Bộ binh cao cấp của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ trường Sĩ quan Trừ bị được
**Trận Đà Nẵng (1859–1860)** hay **Liên quân Pháp – Tây Ban Nha tấn công Đà Nẵng lần thứ hai** là một trong những trận đánh mở đầu cho cuộc chiến tranh Pháp-Việt 1858-1884 trong lịch
**Nhà Trần** (chữ Nôm: 茹陳, chữ Hán: 陳朝, Hán Việt: _Trần triều_) là một triều đại quân chủ cai trị nước Đại Việt từ năm 1226 đến năm 1400. Đây là triều đại được lưu
**Trần Thiêm Bình** (添平, ? – 1406) hoặc **Trần Thiên Bình** (陳天平) ## Cầu viện nhà Minh Đến năm 1400, nhân sự kiện Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần-Đại Việt, lập ra
1/ Mỡ trăn làm dịu vết bỏng - Bôi đẫm mỡ trăn vào vết bỏng càng sớm càng tốt. Mỡ trăn sẽ giúp vết bỏng không bị sưng, phồng rộp lên, và giảm đau rát
**Nguyễn Văn Trân** (sinh ngày 04/05/1906 - mất ngày 29/09/1999) hay thường được gọi là "**Bảy Trân**" là nhà cách mạng Việt Nam, Chủ tịch tỉnh Chợ Lớn. ## Quá trình hoạt động Nguyễn Văn
nhỏ|Nguyễn Văn Sâm **Nguyễn Văn Sâm** (27 tháng 9 năm 1898 -10 tháng 10 năm 1947) là một nhà báo và chính khách Việt Nam. Ông được vua Bảo Đại đề cử làm khâm sai
**Võ Văn Ngân** (1902-1938) là một nhà cách mạng Việt Nam, lãnh đạo cao cấp của phong trào cộng sản Việt Nam thời kỳ đầu. ## Tiểu sử Võ Văn Ngân sinh năm 1902 trong
**Trần Lệ Xuân** (22 tháng 8 năm 1924 – 24 tháng 4 năm 2011), còn được gọi tắt theo tên chồng là **bà Nhu** (), là một gương mặt then chốt trong chính quyền Ngô
**Trần Minh Tông** (chữ Hán: 陳明宗 4 tháng 10 năm 1300 – 10 tháng 3 năm 1357) tên thật là **Trần Mạnh** (陳奣), là vị hoàng đế thứ năm của Hoàng triều Trần nước Đại
**Hoàng Văn Thái** (1915 – 1986), tên khai sinh là **Hoàng Văn Xiêm** là Đại tướng Quân đội nhân dân Việt Nam và là một trong những tướng lĩnh có ảnh hưởng quan trọng trong
**Trần Thủ Độ** (chữ Hán: 陳守度, 1194 – 1264), cũng gọi **Trung Vũ đại vương** (忠武大王), là một nhà chính trị Đại Việt, sống vào thời cuối triều Lý đầu triều Trần trong lịch sử
**Lê Văn Tám** là tên của một thiếu niên anh hùng trong thời kỳ chiến tranh Đông Dương của Việt Nam với chiến tích nổi bật là đã cảm tử châm lửa để phá hủy
**Ngô Văn thi** (chữ Hán: 吳文楚, ?– 1795), còn có tên là **Ngô Văn**, **Ngô Văn Thi**, là một danh tướng của nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự
**Chu Văn An** (6 tháng 10 năm 1292, ông không rõ năm mất, có một số tài liệu ghi là năm 1370), tên thật là **Chu An**, hiệu là **Tiều Ẩn**, tên chữ là **Linh
**Trần Nghệ Tông** (chữ Hán: 陳藝宗) (20 tháng 12 năm 1321 – 6 tháng 1 năm 1395), tên húy là **Cung Định Vương Trần Phủ** (陳暊) hoặc **Trần Thúc Minh** (陳叔明), xưng hiệu **Nghệ Hoàng**
**Quân sự nhà Trần** phản ánh việc tổ chức quân đội của vuơng triều Trần trong lịch sử Việt Nam. Hoạt động quân sự nhà Trần diễn ra ở cả trong nước lẫn bên ngoài
**Trường Trung học phổ thông Chuyên Chu Văn An** (còn được gọi là **Trường Chu Văn An**, **Trường Bưởi**, **Trường Chu** hay trước đây là **Trường Trung học phổ thông Quốc gia Chu Văn An,**