✨Văn hóa Tây Tạng

Văn hóa Tây Tạng

Một nhà sư Tây Tạng đang khuấy loại trà có vị bơ

Văn hóa Tây Tạng phát triển dưới ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Tiếp xúc với các quốc gia và nền văn hóa láng giềng như Nepal, Ấn Độ và Trung Quốc đã ảnh hưởng đến nền văn hóa Tạng, nhưng chính sự tách biệt của vùng núi Himalaya đã tạo nên một nền văn hóa khác biệt. Phật giáo đã cố gắng tạo những ảnh hưởng mạnh mẽ lên văn hóa Tạng ngay từ ngày đầu du nhập vào thế kỷ thứ 7. Nghệ thuật, văn chương và âm nhạc là những nhân tố cấu thành niềm tin Phật giáo, và tại Tây Tạng, chính đạo Phật cũng đã được biến đổi thành một nhánh riêng với ảnh hưởng của truyền thống tôn giáo Bon và các niềm tin bản địa khác. Môi trường sống đặc trưng ở Tây Tạng: độ cao, mùa vụ ngắn, thời tiết lạnh giá khiến cho người ta phải sống dựa vào chăn nuôi gia súc, từ đó mà cũng tạo nên một nền ẩm thực khác biệt với các vùng xung quanh.

Ảnh hưởng chính

Các tu sĩ Phật giáo đến từ Nepal và Trung Quốc đã giới thiệu các loại hình nghệ thuật và phong tục từ Ấn Độ và Trung Quốc. Các trước tác về thiên văn, chiêm tinh và y khoa đã được dịch từ tiếng Phạn và tiếng Hoa. Các kỹ thuật văn minh đến từ nước khác gồm cách làm bơ, phô mai, bia lúa đại mạch, làm gốm, guồng quay nước và quốc ẩm- trà.

Cuộc sống gia đình của người Tạng

Theo truyền thống, người Tạng rất kính trọng gia đình. Các cuộc hôn nhân do xếp đặt vẫn được vui vẻ chấp nhận và vẫn là một chuẩn mực xã hội ở Tây Tạng.

Ẩm thực

Cây trồng quan trọng nhất là [[lúa mạch]]

Ẩm thực Tây Tạng rất khác so với các vùng xung quanh vì chỉ có vài loại cây có thể trồng được ở độ cao lớn (không trồng được lúa nước). Cây lương thực chủ yếu là đại mạch. Bánh làm từ bột đại mạch, gọi là tsampa là món ăn cơ bản trong mọi bữa ăn của người Tạng. Thịt thường có thịt bò Tây Tạng, thịt dê hoặc thịt cừu, thường được nướng hoặc ninh cay với khoai tây. Hạt mù tạt được gieo trồng ở Tây Tạng và rất phổ biến trong ẩm thực Tạng. Sữa bò Tây Tạng chua, và các sản phẩm từ nó như bơ, phô mai cũng được dùng phổ biến và loại sữa bò Tây Tạng chua thượng hạng được xem là một món sơn hào hải vị.

Các món ăn Tây Tạng khác gồm: Balep korkun - một loại bánh mì dẹt ở miền Trung Tây Tạng, thường được nấu trong nồi đất hơn là trong lò. Thenthuk - một loại mì nước có nhiều rau ăn vào lúc trời lạnh.

Ở cách thành phố và thị trấn lớn của Tây Tạng, một số nhà hàng có phục vụ thêm món ăn Tứ Xuyên. Các món ảnh hưởng phương Tây hay các món lai khác, ví dụ như món bò Tây Tạng chiên khoai tây, cũng phổ biến. Tuy vậy, các quán ăn Tây Tạng truyền thống ở nhiều thành phố và làng mạc vẫn giữ vững hương vị đặc trưng của ẩm thực Tạng.

Một vật dụng nhà bếp Tây Tạng. Lưu ý kích thước nhỏ của vại đựng bơ có dây đeo vai, phù hợp với cuộc sống du mục Trà hoa nhài và trà bơ làm từ sữa bò Tây Tạng cũng được dùng. Các thức uống có cồn gồm: Chang: loại bia thường làm từ đại mạch. Raksi: rượu gạo

Lịch pháp

Lịch Tạng là loại âm lịch tính theo Mặt Trăng; một năm có 12 hoặc 13 tháng; mỗi tháng bắt đầu và kết thúc vào lúc trăng non. Tháng thứ 13 được thêm vào cách quãng khoảng 3 năm để năm âm lịch có thể tương đương với năm dương lịch. Các tháng không có tên, nhưng được gọi theo số, trừ tháng 4 có tên là saka dawa, tưởng nhớ ngày đản sinh của Đức Phật.

Tết Tây Tạng có tên là Losar.

Mỗi năm tương ứng với một con vật và một yếu tố của ngũ hành. Các con vật theo thứ tự lần lượt là:

Các yếu tố thay thế nhau theo thứ tự:
Mỗi yếu tố thống trị hai năm liên tiếp, năm đầu có tính dương, năm sau có tính âm. ví dụ, năm Thìn Thổ dương sẽ được theo sau bởi năm Tị Thổ âm, sau đó là năm Ngọ Kim dương.

Vòng tuần hoàn này có chu kỳ 60 năm, bắt đầu với năm Mão Hỏa âm. Những vòng tuần hoàn này được đánh số. Vòng tuần hoàn đầu tiên bắt đầu năm 1027. Cho nên, năm 2005 là năm Dậu Mộc âm của vòng tuần hoàn thứ 17 và năm 2008 là năm Tí Thổ dương của cùng vòng tuần hoàn đó.

Các ngày trong tuần

Các ngày trong tuần đều tương ứng với các thiên thể.

Nyima (Mặt Trời), Dawa (Mặt Trăng) và Lhakpa (Sao Thủy) là các tên phổ biến đối với những người sinh ra vào Chủ nhật, thứ hai và thứ tư.

Các kỷ nguyên

*Rab byung: Ngày đầu tiên của vòng tuần hoàn 60 năm đầu tiên- năm 1027 sau Công Nguyên.

  • Rab lo: tổng số năm tính từ năm 1027.
  • Kỷ nguyên Tây Tạng tính từ năm 255 sau Công Nguyên (được in trên tiền của chính quyền cũ của Tây Tạng).
  • rgyal lo hoặc bod rgyal lo: Năm đầu tiên của kỷ nguyên này là năm 127 trước Công Nguyên.

Trang phục

Hai phụ nữ ở tu viện Drepung Người Tạng rất có ý thức giữ trang phục truyền thống dù rằng một số người đã chuyển sang ăn mặc như phương Tây. Phụ nữ quấn váy màu đậm ở ngoài áo cánh; chiếc tạp dề len có sọc đủ màu có nghĩa người đó là phụ nữ đã có chồng. Cả nam lẫn nữ đều mặc áo tay dài dù trong ngày hè nóng nực.

Trong cuốn "Hành khúc Tây Tạng" xuất bản năm 1955, André Migot miêu tả trang phục Tây Tạng như sau: Trang phục nữ Tây Tạng phải|Trang phục nam Tây Tạng

:"Trừ các lạt ma hay một số dân thường khác đã cạo trọc đầu, người Tây Tạng đều tết tóc quấn quanh đầu và cùng với vài vòng tết nhỏ cầu kỳ khác điểm tô thêm, khiến cho đầu họ trông giống như đội vương miện vậy. Họ thường đội nón hình chóp có hình dạng tùy vào quê của họ, có lúc, chóp nón có gắn một mảnh vuông, trên đó treo lủng lẳng những sợi tua dày bằng len. Để tránh cho nên khỏi bị bay, họ gắn nón vào lọn tóc tết dài của mình và lọn tóc này không quấn quanh đầu. Tai trái của họ đeo một chiếc bông tai nặng bằng bạc có gắn san hô hoặc đá ngọc lam turquoise trang trí.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Một nhà sư Tây Tạng đang khuấy loại trà có vị bơ **Văn hóa Tây Tạng** phát triển dưới ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Tiếp xúc với các quốc gia và nền văn hóa
**Hán hóa Tây Tạng** là một cụm từ được sử dụng bởi các nhà phê bình về sự cai trị của Trung Quốc ở Tây Tạng để chỉ sự đồng hoá văn hoá xảy ra
**Lịch sử Tây Tạng từ năm 1950 đến nay** bắt đầu từ sau trận Qamdo năm 1950. Trước đó, Tây Tạng đã tuyên bố độc lập khỏi Trung Quốc vào năm 1913. Năm 1951, người
**Tây Tạng** (, tiếng Tạng tiêu chuẩn: /pʰøː˨˧˩/; (_Tây Tạng_) hay (_Tạng khu_)), được gọi là **Tibet** trong một số ngôn ngữ, là một khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal,
**Tây Tạng** là một khu vực tại Trung Á, nằm trên cao nguyên Thanh Tạng, có cao độ trung bình trên 4.000 mét và được mệnh danh là "nóc nhà của thế giới". Con người
**Tình cảm bài Tây Tạng** đề cập đến sự sợ hãi, ghét, thù địch và phân biệt chủng tộc đối với người dân Tây Tạng hoặc bất cứ điều gì liên quan đến văn hóa
thumb|Một ngôi làng Nạp Tây gần Lệ Giang **Người Nạp Tây** (Giản thể: 纳西族, Phồn thể: 納西族, Bính âm: Nàxī zú, Hán Việt: Nạp Tây tộc) hay **người Naxi** hoặc **người Nakhi** (theo tên tự
Cuộc sáp nhập ** Tây Tạng của Trung Quốc**, còn được gọi theo sử học Trung Quốc là **Giải phóng Hòa bình Tây Tạng** (, ) là chỉ việc Chính phủ nước Cộng hòa Nhân
Trà Thảo Mộc TUYẾT LIÊN HOA TÂY TẠNG Tăng Sức Đề Kháng, Bổ Thận, Dưỡng Tâm, An Thần, Thông Khí Huyết, Đẹp Da - 1 BôngNgôi Nhà Thảo Dược Hymalaya, cung cấp thảo dược tự
**Vương quốc Tây Tạng** là một quốc gia tồn tại từ khi Nhà Thanh sụp đổ năm 1912, kéo dài cho đến khi bị Trung Quốc sáp nhập năm 1951. Chế độ Ganden Phodrang tại
**Tử thư** (zh. 死書, bo. _bardo thodol_ བར་དོ་ཐོས་གྲོལ་, nguyên nghĩa là "Giải thoát qua âm thanh trong Trung hữu", en. _liberation through hearing in the Bardo_) là một tàng lục (bo. _gter ma_ གཏེར་མ་), được
nhỏ|phải|Vị Phật sống [[người Tây Ban Nha Hita y Torres]] nhỏ|phải|Vị nữ Phật sống [[người Mỹ Catharine Burroughs (tên khai sinh là _Alyce Louise Zeoli_), sinh ra tại Canarsie, Brooklyn ở Mỹ]] Một vị **Phật
**Đại hội Đại biểu Nhân dân Khu tự trị Tây Tạng** là đại hội đại biểu nhân dân địa phương của Khu tự trị Tây Tạng. Sau các quyết định của Đại hội Đại biểu
**Hiệp định giữa chính phủ nhân dân trung ương và chính quyền địa phương Tây Tạng về cách giải phóng hoà bình Tây Tạng**, gọi tắt bằng **Hiệp định 17 điều**, là văn kiện mà
**_Địa vị Lịch sử của Tây Tạng thuộc Trung Quốc_** (, tiếng Trung giản thể: 中国西藏的历史地位) là một cuốn sách xuất bản năm 1997 bằng tiếng Anh của chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung
**Chính phủ Nhân dân Khu tự trị Tây Tạng** là cơ quan hành chính cấp tỉnh của Tây Tạng, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Chính quyền cấp tỉnh này bao gồm Đại hội Đại
nhỏ|phải|Một con ngựa bạch Tây Tạng **Ngựa Tây Tạng** là một giống ngựa có nguồn gốc từ vùng Tây Tạng của Trung Quốc. Chúng được nuôi trong điều kiện những vùng đất cao, lạnh giá
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Tây Tạng** là một đội tuyển bóng đá đại diện cho khu vực văn hóa của Tây Tạng và được tổ chức bởi Hiệp hội bóng đá quốc
**Khu tự trị Tây Tạng** (tiếng Tạng: བོད་རང་སྐྱོང་ལྗོངས་; Wylie: Bod-rang-skyong-ljongs, phiên âm: [pʰøː˩˧˨ ʐaŋ˩˧.coŋ˥˩ t͡ɕoŋ˩˧˨]; tiếng Trung giản thể: 西藏自治区; tiếng Trung phồn thể: 西藏自治區; bính âm: Xīzàng Zìzhìqū) là một đơn vị hành chính
**Tây Tạng dưới sự cai trị của nhà Thanh** đề cập đến mối quan hệ của nhà Thanh đối với Tây Tạng từ năm 1720 đến năm 1912. Trong thời kỳ này, nhà Thanh coi
**Chính quyền Trung ương Tây Tạng** (tiếng Tạng: བཙན་བྱོལ་བོད་གཞུང་; Wylie: btsan-byol bod gzhung,. Ngoài nhiệm vụ chính trị, chính quyền này còn quản lý một mạng lưới các trường học và một số hoạt động
**Năm ngón tay của Tây Tạng** (, _Tây Tạng đích ngũ chỉ_) là một chính sách đối ngoại của Trung Quốc được đưa ra bởi Mao Trạch Đông coi Tây Tạng là lòng bàn tay
phải|Các sư Tây Tạng (lama) trong một buổi lễ ở [[Sikkim]] **Phật giáo Tây Tạng** (hay còn gọi là **Lạt-ma giáo**) là một một truyền thống Phật giáo phát triển chủ đạo ở Tây Tạng.
Vùng màu cam là nơi sinh sống của người Tây Tạng **Bạo động Tây Tạng 2008** bắt đầu bằng các cuộc biểu tình ngày 10 tháng 3 năm 2008, kỷ niệm lần thứ 49 ngày
**Phong trào độc lập Tây Tạng** là một phong trào đòi độc lập cho các vùng đất mà người dân Tây Tạng sống và đòi tách biệt về mặt chính trị của những vùng đất
**Tây Tạng thời kỳ đồ đá mới** là giai đoạn tiền sử mà công nghệ đồ đá mới đã xuất hiện tại khu vực Tây Tạng ngày nay. Con người đã bắt đầu sinh sống
thumb|right|Một tượng sư tử tuyết lớn gác cổng vào [[Cung điện Potala]] thumb|Một hình xăm sư tử tuyết **Sư tử tuyết** (; ; Hán Việt: **thụy sư**) là một thần vật của Tây Tạng. Nó
**Nổi dậy Tây Tạng năm 1959** hoặc **Cuộc nổi loạn Tây Tạng năm 1959** bắt đầu vào ngày 10 tháng 3 năm 1959, khi một cuộc nổi loạn diễn ra ở Lhasa, thủ phủ của
**Con voi** là đối tượng của miêu tả trong nhiều nền văn hóa khác nhau trong văn hóa đại chúng, trong thần thoại và biểu tượng đặc biệt là ở châu Á và châu Phi
**Vùng văn hóa Ấn Độ** hay **Ấn quyển** (tiếng Anh: _Indosphere_, chữ Hán: 印圈) là một thuật ngữ do nhà ngôn ngữ học James Matisoff đặt ra để chỉ các vùng chịu ảnh hưởng về
nhỏ|phải|Con [[tê giác là thần thú huyền thoại trong truyền thuyết, chúng được ví như linh vật kỳ lân]] nhỏ|phải|Các loài [[côn trùng có vai trò thầm lặng nhưng thiếu yếu]] nhỏ|phải|Tôm hùm [[BBQ, trong
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Pha_Trelgen_Changchup_Sempa.jpg|phải|nhỏ|300x300px|Cha khỉ già từ bi **Cha khỉ già từ bi** (tiếng Tạng: , phiên âm THL: _Pa trelgen jangchup sempé_) là tổ tiên trong truyền thuyết của người Tạng, ông là một trong những biểu
nhỏ|phải|Những con [[tê giác châu Phi, ngày nay, chúng là biểu tượng của sự nghiệp bảo tồn động vật, trong lịch sử chúng từng được xem như loài thần thú trị thủy]] nhỏ|phải|Họa phẩm về
**Vùng văn hóa Á Đông** (chữ Nôm: ) hay **vùng văn hóa Đông Á** (chữ Nôm: ) hay còn gọi là **vùng văn hóa chữ Hán** (chữ Nôm: ), **Đông Á văn hóa quyển** (chữ
nhỏ|phải|[[Sư tử được coi là vị vua của muôn loài, biểu tượng của Hoàng gia, Vương quyền, sự thống trị, sự can đảm và cao quý, biểu tượng trong nhiều tôn giáo lớn trên thế
nhỏ|Tượng thần [[Khẩn Na La huyền thoại tại chùa Phra Kaew (chùa Phật Ngọc), Băng Cốc]] **Văn hóa Thái Lan** là một khái niệm bao hàm những niềm tin và các đặc trưng văn hóa
nhỏ|_[[Dancheong_, họa tiết trang trí ở Gyeongbokgung.]] nhỏ|Lễ hội đèn lồng hoa sen. Sự phân tách Triều Tiên thành hai chính thể: Đại Hàn Dân Quốc (còn gọi là Hàn Quốc hoặc Nam Hàn) và
**Bảo tàng văn hoá các dân tộc Việt Nam** là một thiết chế văn hoá được xây dựng từ năm 1960, nằm giữa trung tâm thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên, cách thủ đô
**Con lợn** hay **con heo** là loài vật đã gắn bó lâu đời với con người và xung quanh đó là nhiều câu chuyện trong văn hóa đại chúng về con lợn. Trong văn hóa,
280xppx|nhỏ|phải|Tượng rùa trong Văn Miếu Quốc Tử Giám **Con rùa** (tiếng Pháp **Tortue**, tiếng Anh **Turtle**) (có chung một gốc từ), là một loài động vật thuộc vực Eukaryota, giới Animalia, thuộc ngành Chordata. Ý
nhỏ|phải|Trang phục mùa đông của người Mông Cổ, người Mông Cổ có truyền thống [[đi săn với đại bàng]] nhỏ|phải|[[Lều du mục của người Mông Cổ]] nhỏ|phải|Một lễ hội du mục ở Mông Cổ ([[Naadam)]]
nhỏ|phải|Văn hóa trà đạo Nhật Bản nhỏ|phải|Trà Iran nhỏ|phải|Trà Ấn Độ **Văn hóa trà** là kiểu văn hóa được đặc định thông qua cung cách pha trà và thưởng thức trà cũng nhưng cái cách
**Văn Thành công chúa** (chữ Hán: 文成公主, 628-680 ), được người Tạng biết tới như là **Gyamoza** (chữ Tạng: ), Hán ngữ là **Hán Nữ thị** (漢女氏) hoặc **Giáp Mộc Tát Hán công chúa** (甲木薩漢公主;
**Hán hóa** (chữ Anh: _Sinicization_ hoặc _sinofication_, _sinification_, _sinonization_; tiếp đầu ngữ _sino-_, nghĩa là “thuộc về Trung Quốc”), hoặc gọi **Trung Quốc hoá**, là quá trình mà trong đó các xã hội hoặc cộng
Trên bao bì của Tắm trắng Saffron các bạn nhận thấy có dòngUpf35. Rất nhiều bạn thắc mắc về vấn đề này. Miu xin đc giải đáp nhé.. SPF(Sun Protection Facter) là hệ số chống
Di vật đèn thuyền [[Văn hóa Đông Sơn- sản phẩm của nền Văn minh lúa nước]] **Văn minh lúa nước** là một dạng văn minh nông nghiệp, xuất hiện cách đây khoảng 13.000 năm tại
nhỏ|262x262px|Người Tạng **Người Tạng** hay **người Tây Tạng** (; ; Hán Việt: Tạng tộc) là một dân tộc bản địa tại Tây Tạng, vùng đất mà ngày nay hầu hết thuộc chủ quyền của Cộng
Nhân quyền tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là một vấn đề tranh cãi giữa chính phủ Trung Quốc và các nước khác cũng như các tổ chức phi chính phủ. Bộ Ngoại giao
**Trà bơ**, hay còn được gọi là _Bho jha_ (, "Trà Tây Tạng"), _cha süma_ (, "Trà khuấy", tiếng Quan thoại: _sūyóu chá_ (酥油茶, _tô du trà_), _su ja_ (, "trà khuấy") trong tiếng Dzongkha
**Tây Hạ** (chữ Hán: 西夏, bính âm: _Xī Xià_; chữ Tây Hạ: x20px|link= hoặc x20px|link=) (1038-1227) là một triều đại do người Đảng Hạng kiến lập trong lịch sử Trung Quốc. Dân tộc chủ thể