✨U-50 (tàu ngầm Đức) (1939)

U-50 (tàu ngầm Đức) (1939)

U-50 là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1939, nó đã thực hiện được hai chuyến tuần tra và đánh chìm được bốn tàu buôn với tổng tải trọng . U-50 bị mất do trúng thủy lôi tại Bắc Hải, ở vị trí về phía Bắc Terschelling, vào ngày 6 tháng 4, 1940.

Thiết kế và chế tạo

Thiết kế

Phân lớp VIIB của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIA được mở rộng. Chúng có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn). Con tàu có chiều dài chung , lớp vỏ trong chịu áp lực dài , mạn tàu rộng , chiều cao và mớn nước .

Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất , dẫn động hai trục chân vịt đường kính , cho phép đạt tốc độ tối đa , và tầm hoạt động tối đa khi đi tốc độ đường trường . Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện Brown, Boveri & Cie GG UB 720/8 tổng công suất . Tốc độ tối đa khi lặn là , và tầm hoạt động ở tốc độ . Con tàu có khả năng lặn sâu đến .

Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi , bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIB bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.

Chế tạo

U-50 được đặt hàng vào ngày 21 tháng 11, 1936,

Trên đường đi tại Bắc Hải lúc 22 giờ 40 phút ngày 11 tháng 2, U-50 bắt gặp tàu buôn Thụy Điển trung lập Orania đang vận chuyển ngô, cám và bã đậu nành từ Argentina. Cho dù Orania đã mở hết đèn khi di chuyển ban đêm, U-50 đã không nhận ra mục tiêu là một tàu trung lập, nên lúc 23 giờ 54 phút đã phóng một quả ngư lôi tấn công và đánh chìm Orania ở vị trí về phía Đông Bắc quần đảo Shetland. Toàn bộ 24 người trên tàu đã lên được hai xuồng cứu sinh, nhưng một chiếc với 14 người đã không bao giờ được tìm thấy. Mười người sống sót được các tàu khu trục Anh và cứu vớt vào ngày hôm sau.

Đến sáng sớm ngày 15 tháng 2, ở vị trí về phía Tây Scotland, U-50 phát hiện tàu buôn Đan Mạch trung lập Maryland đang di chuyển không được hộ tống. Quả ngư lôi thứ nhất do U-50 phóng lúc 01 giờ 54 phút bị kích nổ sớm, nhưng quả thứ hai phóng lúc 02 giờ 07 phút đã trúng đích, khiến Maryland đắm chỉ trong vòng bảy phút; toàn bộ 34 người trên tàu đều thiệt mạng.

Tiếp tục chuyến tuần tra hướng xuống phía Nam đến vịnh Biscay, vào ngày 21 tháng 2, U-50 bắt gặp tàu buôn Hà Lan Tara ( ở vị trí về phía Tây mũi Finisterre, Tây Ban Nha. Cho dù có vị thế trung lập, chiếc tàu buôn không mang ký hiệu nhận dạng trung lập, nên U-50 đã phóng quả ngư lôi đầu tiên tấn công lúc 01 giờ 38 phút nhưng bị trượt. Quả thứ hai phóng lúc 02 giờ 54 phút đã đánh trúng Tara, và toàn bộ thủy thủ đoàn đã di tản trên hai xuồng cứu sinh, trước khi quả ngư lôi thứ ba kết liễu chiếc tàu buôn lúc 03 giờ 12 phút. Toàn bộ thủy thủ đoàn đã được cứu vớt.

Sang ngày hôm sau 22 tháng 2, lúc 00 giờ 20 phút, U-50 phát hiện Đoàn tàu OGF 19, và đã phóng ngư lôi tấn công tàu chở dầu Anh British Endeavour ở vị trí khoảng về phía Tây Vigo, Tây Ban Nha. Chiếc tàu chở dầu đắm tại tọa độ , và năm thành viên thủy thủ đoàn đã thiệt mạng cùng con tàu, nhưng 33 người khác đã sống sót và được cứu vớt.

U-50 kết thúc chuyến tuần tra và về đến Kiel vào ngày 4 tháng 3.

Chuyến tuần tra thứ hai - Bị mất

U-50 khởi hành từ Kiel vào ngày 5 tháng 4 cho chuyến tuần tra thứ hai, cũng là chuyến cuối cùng, và bị mất tích kể từ đó. U-50 có thể đã va phải thủy lôi vào ngày 6 tháng 4 và đắm tại Bắc Hải, ở vị trí về phía Bắc Terschelling, ở khoảng tọa độ . Toàn bộ 44 thành viên thủy thủ đoàn đều đã tử trận.

Bãi mìn số 7 được các tàu khu trục Anh , , và rải vào ngày 3 tháng 3, có thể là nguyên nhân khiến U-50 bị mất, cũng như một số tàu U-boat khác đang trên đường quay trở về căn cứ.

Tóm tắt chiến công

U-50 đã đánh chìm được bốn tàu buôn với tổng tải trọng :

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_U-50_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1939, nó đã thực
Ít nhất hai tàu ngầm của Hải quân Đức từng được đặt cái tên **_U-50_**: * là một tàu ngầm hạ thủy năm 1915, phục vụ trong Thế Chiến I và bị đánh chìm năm
**_U-43_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1939, nó đã thực
**_U-65_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực
**_U-45_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1938, nó đã thực
**_U-556_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-558_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-333_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-402_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
_U-176_ là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type IXC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-358_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực
**_U-80_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó không tham
**Lớp tàu ngầm _Tambor**_ bao gồm mười hai tàu ngầm diesel-điện được Hải quân Hoa Kỳ đưa vào hoạt động ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Chúng là những tàu ngầm hạm đội
**Lớp tàu sân bay _Courageous**_, đôi khi còn được gọi là **lớp _Glorious_**, là lớp nhiều chiếc tàu sân bay đầu tiên phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Ba chiếc trong lớp
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
**Lớp tàu khu trục C và D** là một nhóm 14 tàu khu trục được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào đầu những năm 1930. Giống như những năm trước, người ta
**Trận chiến Đại Tây Dương** được xem là trận chiến kéo dài nhất trong lịch sử Chiến tranh thế giới thứ hai mặc dù có nhiều nhà sử học, nhà nghiên cứu hải quân của
nhỏ|phải|[[HMS Hood (51)|HMS _Hood_, tàu chiến-tuần dương lớn nhất từng được chế tạo, lớn hơn mọi thiết giáp hạm Anh Quốc cho đến khi chiếc HMS _Vanguard_ đưa ra hoạt động vào năm 1946. Nó
**HMS _Courageous**_ là một tàu sân bay của Hải quân Hoàng gia Anh. Nó được chế tạo tại xưởng đóng tàu Armstrong Whitworth như một "tàu tuần dương hạng nhẹ cỡ lớn". Từng tham gia
phải|Depth charge **Mark IX** sử dụng bởi [[Hải quân Hoa Kỳ vào cuối Chiến tranh thế giới thứ hai. Không giống như các loại Depth charge có hình trụ và trông giống như thùng phi
**_Bismarck_** là một thiết giáp hạm của Hải quân Đức, là chiếc dẫn đầu trong lớp cùng tên, được đặt theo tên vị Thủ tướng nổi tiếng trong thế kỷ 19: Otto von Bismarck, người
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Admiral**_ là một lớp bao gồm bốn tàu chiến-tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được thiết kế vào lúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất sắp kết thúc.
**Lớp tàu sân bay _Graf Zeppelin**_ là hai tàu sân bay của Hải quân Đức được đặt lườn vào giữa những năm 1930 như một phần của Kế hoạch Z nhằm tái vũ trang. Bốn
**Lớp tàu tuần dương _La Galissonnière**_ là một nhóm sáu tàu tuần dương hạng nhẹ được đưa vào hoạt động cùng Hải quân Pháp trong những năm 1930. Chúng là những tàu tuần dương Pháp
**Lớp tàu khu trục Tribal**, còn được gọi là **lớp _Afridi**_, là một lớp tàu khu trục được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh, Canada và Australia ngay trước Chiến tranh Thế giới
**USS _Leary_ (DD-158)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nhập biên chế vào năm 1919, nó tham
**_Graf Zeppelin_** là tàu sân bay duy nhất của Đức được hạ thủy trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, tiêu biểu phần nào cho những nỗ lực của Hải quân Đức để tạo ra
Chiếc **Consolidated B-24 Liberator** **(Người giải phóng)** là kiểu máy bay ném bom hạng nặng 4 động cơ Hoa Kỳ do hãng Consolidated Aircraft chế tạo. Nó được sản xuất với số lượng nhiều hơn
**Lớp thiết giáp hạm** **_Bismarck_** là một lớp thiết giáp hạm của Hải quân Đức Quốc Xã (_Kriegsmarine_) được chế tạo không lâu trước khi Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ. Lớp này
**USS _Wickes_ (DD-75)** là chiếc dẫn đầu của lớp tàu khu trục mang tên nó của Hải quân Hoa Kỳ được chế tạo trong Chiến tranh thế giới thứ nhất; sau đó được chuyển cho
nhỏ|HMS Dreadnought **Thiết giáp hạm** ()là một loại tàu chiến lớn được bọc thép dày với dàn hỏa lực chính bao gồm pháo có cỡ nòng rất lớn (trên 300mm). Thiết giáp hạm là loại
**HMS _Kempenfelt_ (I18)** là một tàu khu trục lớp C được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào đầu những năm 1930. Là một soái hạm khu trục, nó đã phục vụ cho
**HMS _Ark Royal_ (91)** là một tàu sân bay của Hải quân Hoàng gia Anh đã từng hoạt động trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Đây là loại tàu sân bay kiểu cũ có
**HMS _Decoy_ (H75)** là một tàu khu trục lớp D được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào đầu những năm 1930. Thoạt tiên được phân về Hạm đội Địa Trung Hải, nó
**USS _Upshur_ (DD–144)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế giới
**HMS _Tartar_ (L43/F43)** là một tàu khu trục lớp Tribal được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã phục vụ trong suốt Thế Chiến
**HMS _Avenger_ (D14)** là một tàu sân bay hộ tống của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, chiếc dẫn đầu trong lớp của nó vốn đã hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai.
**USS _Twiggs_ (DD–127)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau được chuyển cho Hải quân Hoàng gia Anh trong
**HMS _Duncan_ (D99)** là một tàu khu trục lớp D được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào đầu những năm 1930. Là một soái hạm khu trục, nó thoạt tiên được phân
**USS _Anderson_ (DD-411)** là một tàu khu trục lớp _Sims_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai; nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân
**HMS _Garland_ (H37)** là một tàu khu trục lớp G được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc vào giữa những năm 1930. Nó trải qua một phần lớn thời gian tại vùng
**USS _Hunt_ (DD-194)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó phục vụ cùng lực lượng Tuần duyên Hoa Kỳ
**Lớp tàu frigate Captain** bao gồm 78 tàu frigate của Hải quân Hoàng gia Anh được chế tạo tại Hoa Kỳ và hạ thủy vào các năm 1942–1943. Chúng được chuyển giao cho Anh Quốc
**HMS _Cygnet_ (H83)** là một tàu khu trục lớp C được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào đầu những năm 1930. Thoạt tiên phục vụ cùng Hạm đội Nhà, nó được tạm
**USS _Branch_ (DD-197)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, trong Chiến tranh Thế giới thứ Hai được chuyển cho
**USS _McCalla_ (DD-253)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, nó được chuyển
**USS _Blakeley_ (DD–150)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế
**HMS _Griffin_ (H31)** là một tàu khu trục thuộc lớp G được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó trải qua một phần lớn thời gian trước chiến
**USS _Herndon_ (DD-198)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất; từng phục vụ cho Lực lượng Tuần duyên Hoa Kỳ
**USS _Mason_ (DD-191)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, trong Chiến tranh Thế giới thứ Hai được chuyển cho