✨U-333 (tàu ngầm Đức)
U-333 là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực hiện được tổng cộng mười hai chuyến tuần tra, đánh chìm được bảy tàu buôn với tổng tải trọng , đồng thời gây hư hại cho một tàu chiến tải trọng 925 tấn cùng một tàu buôn tải trọng . Chiếc tàu ngầm cũng đã bắn rơi hai máy bay đối phương. Trong chuyến tuần tra cuối cùng tại Đại Tây Dương, U-333 bị các tàu sà lúp và tàu frigate Hải quân Hoàng gia Anh đánh chìm bằng súng cối chống ngầm Squid gần lối ra vào eo biển Manche vào ngày 31 tháng 7, 1944.
Thiết kế và chế tạo
Thiết kế
thumb|left|Sơ đồ các mặt cắt một tàu ngầm Type VIIC Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn). Con tàu có chiều dài chung , lớp vỏ trong chịu áp lực dài , mạn tàu rộng , chiều cao và mớn nước .
Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất , dẫn động hai trục chân vịt đường kính , cho phép đạt tốc độ tối đa , và tầm hoạt động tối đa khi đi tốc độ đường trường . Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện Garbe, Lahmeyer & Co. RP 137/c tổng công suất . Tốc độ tối đa khi lặn là , và tầm hoạt động ở tốc độ . Con tàu có khả năng lặn sâu đến .
Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi , bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.
Chế tạo
U-333 được đặt hàng vào ngày 23 tháng 9, 1939, Vào ngày 1 tháng 1, 1942, nó bị một máy bay đối phương không rõ nhận dạng tấn công, nhưng không bị hư hại. Đến 15 giờ 25 phút ngày 24 tháng 1, nó lại tấn công và đánh chìm tàu buôn Na Uy Ringstad , vốn bị phân tán khỏi Đoàn tàu ON 55 do thời tiết xấu, ở vị trí khoảng về phía Đông Nam mũi Race, Newfoundland.
Lúc 16 giờ 50 phút ngày 31 tháng 1, ở vị trí về phía Bắc quần đảo Azores, U-333 phóng một quả ngư lôi tấn công một tàu buôn di chuyển zig-zag không được hộ tống, và đánh trúng mục tiêu, rồi phóng thêm một quả ngư lôi nữa lúc 18 giờ 33 phút để đánh chìm, mà không biết rằng mục tiêu lại là chiếc tàu vượt phong tỏa Đức , vốn được ngụy trang như là tàu buôn Na Uy Elg. Spreewald đang trong hành trình từ Đại Liên, Mãn Châu đến Bordeaux vận chuyển 3.365 tấn cao su, 230 tấn thiếc, 20 tấn tungsten và quinin, cùng với 86 tù binh chiến tranh từ các con tàu bị tàu tuần dương Đức Kormoran đánh chìm; tuy nhiên Spreewald đã di chuyển sớm hơn lịch trình, và U-333 đã không thể nhận biết con tàu bạn. Tại đây vào ngày 6 tháng 5, nó tấn công tàu chở dầu Hoa Kỳ Java Arrow ở vị trí khoảng ngoài khơi Vero Beach, Florida lúc 05 giờ 43 phút. Hai quả ngư lôi trúng đích đã khiến hai sĩ quan thiệt mạng, và 45 người còn lại bỏ tàu trên hai xuồng cứu sinh. Tuy nhiên Java Arrow đã không đắm, và hạm trưởng cùng 14 người khác quay trở lại tàu để đưa nó đến được Port Everglades dưới sự trợ giúp của hai tàu kéo. Nó được sửa chữa và hoạt động trở lại vào năm 1943.
Trong khi đó, ở vị trí ngoài khơi Fort Pierce, Florida lúc 09 giờ 35 phút, chiếc U-boat tiếp tục tấn công và đánh chìm được tàu buôn Hà Lan Amazone bằng một quả ngư lôi duy nhất. Amazone, vốn đang vận chuyển 926 tấn cà phê và dầu từ Curaçao đến New York, đắm chỉ trong hai phút tại tọa độ . Sau đó lúc 23 giờ 25 phút, đến lượt tàu chở dầu Hoa Kỳ Halsey bị U-333 đánh trúng hai quả ngư lôi ở vị trí ngoài khơi Stuart, Florida. Sau khi thủy thủ bỏ tàu, Halsey, vốn đang vận chuyển naphtha và dầu mazut từ Corpus Christi, Texas đến New York, nổ tung và vỡ làm đôi một giờ sau đó trước khi đắm tại tọa độ .
Sang ngày hôm sau 7 tháng 5, U-333 bị một tàu hộ tống cho một đoàn tàu vận tải truy đuổi, và bị hư hại nặng bởi mìn sâu, buộc nó phải kết thúc chuyến tuần tra để quay trở về căn cứ. Tuy nhiên trên đường đi lúc 09 giờ 05 phút ngày 10 tháng 5, nó bắt gặp và tấn công chiếc Clan Skene ở vị trí về phía Đông Nam mũi Hatteras. Chiếc tàu buôn Anh, vốn đang vận chuyển 2.000 tấn quặng chrome từ Beira, Mozambique đến New York, trúng hai quả ngư lôi và đắm tại tọa độ . Chiếc U-boat về đến cảng La Pallice vào ngày 26 tháng 5.
Chuyến tuần tra thứ tư
U-333 xuất phát từ La Pallice vào ngày 1 tháng 9 cho chuyến tuần tra thứ tư, và đã hướng xuống phía Nam để hoạt động dọc theo bờ biển Tây Phi. Nó từng tham gia hoạt động phối hợp cùng bầy sói Blücher từ ngày 6 đến ngày 23 tháng 9.
Trên U-333 có ba thành viên thủy thủ đoàn tử trận bao gồm hạm phó thứ nhất, Trung úy Bernhard Hermann, cùng nhiều người bị thương trong đó có hạm trưởng Peter-Erich Cremer. Hạm phó thứ hai, Thiếu úy Helmut Kandzior, phải nắm quyền chỉ huy con tàu, đưa nó đến điểm hẹn gặp gỡ tàu ngầm U-107, nơi Đại úy Lorenz Kasch, một sĩ quan tập sự, chuyển sang làm hạm trưởng tạm quyền của U-333. Những người bị thương của U-333 cũng được một bác sĩ trên tàu ngầm Milchkuh (bò sữa) U-459 trước khi lên đường quay trở về căn cứ. Ngay trong chuyến tuần tra đầu tiên, Graph phát hiện U-333 và phóng bốn quả ngư lôi tấn công, nhưng trinh sát viên bên trên U-333 phát hiện kịp thời các quả ngư lôi và cơ động né tránh được, Nó tham gia cùng bầy sói Falke từ ngày 28 tháng 12, 1942 đến ngày 19 tháng 1, 1943, và cùng bầy sói Landsknecht từ ngày 19 đến ngày 28 tháng 1. Chỉ hai ngày sau khi rời căn cứ, 4 tháng 3, lúc còn đang di chuyển trong vịnh Biscay, nó bị một máy bay ném bom Vickers Wellington trang bị đèn Leigh thuộc Liên đội 172 Anh phát hiện và tấn công. Hỏa lực phòng không của chiếc U-boat đã bắn rơi chiếc máy bay, khiến toàn bộ sáu thành viên đội bay tử trận. Hai trong số bốn quả mìn sâu ném xuống đã rơi trúng chiếc tàu ngầm, nhưng một quả bị vỡ mà không kích nổ, còn quả kia chỉ gây hư hại nhẹ cho U-333. Sau đó U-333 tham gia cùng bầy sói Seewolf từ ngày 21 đến ngày 30 tháng 3,
Chuyến tuần tra thứ tám
Chuyến tuần tra tiếp theo của U-333 bắt đầu từ ngày 21 tháng 10, khi nó tiến ra vùng biển Đại Tây Dương về phía Đông Bắc quần đảo Azores. Tại đây nó tham gia cùng bầy sói Schill từ ngày 25 tháng 10,
Chiếc tàu ngầm lên đường trở lại vào ngày 14 tháng 2 cho chuyến tuần tra thứ mười để hoạt động tại vùng biển về phía Tây Ireland. Ở vị trí về phía Tây đảo Tiree thuộc quần đảo Hebrides vào ngày 21 tháng 3, nó bị máy bay Đồng Minh phát hiện, và bị Đội Hỗ trợ 2, một đội đặc nhiệm tìm-diệt tàu ngầm Anh tinh nhuệ dưới quyền chỉ huy của Đại tá Hải quân Frederic John Walker, tấn công. Bị truy đuổi quyết liệt, Thiếu tá Cremer phải cho U-333 nằm sát đáy biển ở độ sâu trong suốt mười giờ để tránh bị phát hiện, và cho dù gặp khó khăn để thoát ra khỏi bùn dưới đáy biển, nó cuối cùng cũng thoát được mà không bị hư hại, nó gặp phải hoạt động chống tàu ngàm tích cực của đối phương phối hợp với cuộc đổ bộ Normandy. Lúc đang còn trong vịnh Biscay vào ngày 10 tháng 6, chiếc U-boat bị một thủy phi cơ Short Sunderland thuộc Liên đội 10 Không quân Hoàng gia Australia tấn công, và chịu đựng một số thiệt hại cho dù đã đẩy lui cuộc tấn công bằng hoả lực phòng không. Quyền chỉ huy U-333 được chuyển giao cho Đại úy Hải quân Hans Fiedler từ ngày 20 tháng 7. Vào ngày 31 tháng 7, ở vị trí về phía Tây quần đảo Scilly, nó bị các tàu sà lúp và tàu frigate Hải quân Hoàng gia Anh đánh chìm bằng súng cối chống ngầm Squid, khi kiểu vũ khí này lần đầu tiên được đưa vào sử dụng, tại tọa độ . Toàn bộ 45 thành viên thủy thủ đoàn của U-333 đều đã tử trận.
"Bầy sói" tham gia
U-333 từng tham gia chín bầy sói:
- Zieten (17 – 22 tháng 1, 1942)
- Blücher (14 – 18 tháng 8, 1942)
- Iltis (6 – 23 tháng 9, 1942)
- Falke (28 tháng 12, 1942 – 19 tháng 1, 1943)
- Landsknecht (19 – 28 tháng 1, 1943)
- Dränger (14 – 20 tháng 3, 1943)
- Seewolf (21 – 30 tháng 3, 1943)
- Schill (25 tháng 10 – 16 tháng 11, 1943)
- Schill 1 (16 – 19 tháng 11, 1943)
Tóm tắt chiến công
U-333 đã đánh chìm được bảy tàu buôn với tổng tải trọng , đồng thời gây hư hại cho một tàu chiến tải trọng 925 tấn cùng một tàu buôn tải trọng :