U-286 là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó đã thực hiện được bốn chuyến tuần tra, đánh chìm được một tàu chiến tải trọng 1.150 tấn. Trong chuyến tuần tra cuối cùng tại vùng biển Bắc Cực, U-286 bị các tàu frigate , và của Hải quân Hoàng gia Anh đánh chìm trong biển Barents vào ngày 29 tháng 4, 1945.
Thiết kế và chế tạo
Thiết kế
thumb|left|Sơ đồ các mặt cắt một tàu ngầm Type VIIC
Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn). Con tàu có chiều dài chung , lớp vỏ trong chịu áp lực dài , mạn tàu rộng , chiều cao và mớn nước .
Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất , dẫn động hai trục chân vịt đường kính , cho phép đạt tốc độ tối đa , và tầm hoạt động tối đa khi đi tốc độ đường trường . Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện AEG GU 460/8–27 tổng công suất . Tốc độ tối đa khi lặn là , và tầm hoạt động ở tốc độ . Con tàu có khả năng lặn sâu đến .
Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi , bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.
Chế tạo
U-286 được đặt hàng vào ngày 5 tháng 6, 1941, Vào ngày 18 tháng 7, nó bị một máy bay ném bom De Havilland Mosquito với đội bay người Na Uy thuộc Liên đội 333 Không quân Hoàng gia Anh tấn công, khiến một thủy thủ tử trận và bảy người khác bị thương.
1945
Chuyến tuần tra thứ ba
U-286 thực hiện chuyến tuần tra tiếp theo từ ngày 14 tháng 1 đến ngày 24 tháng 2, 1945, cùng xuất phát và kết thúc tại Harstad. Nó hoạt động trong khu vực biển Barents, nhưng vẫn không đánh chìm được mục tiêu nào.
Chuyến tuần tra thứ tư - Bị mất
U-286 thành công hơn trong chuyến tuần tra thứ tư, cũng là chuyến cuối cùng, sau khi xuất phát từ Harstad vào ngày 18 tháng 4 để tiếp tục hoạt động trong khu vực biển Barents. Vào ngày 29 tháng 4, nó đã phóng ngư lôi tấn công chiếc ngoài khơi bán đảo Kola, cách Murmansk , khiến chiếc tàu frigate Anh bị hư hại nặng và phải bị đánh đắm. Các tàu frigate Anh , và đã phản công bằng mìn sâu ngay trong ngày hôm đó, đánh chìm U-286 ở vị trí về phía Bắc Murmansk, tại tọa độ . Toàn bộ 51 thành viên thủy thủ đoàn của U-286 đều tử trận.
"Bầy sói" tham gia
U-286 từng tham gia ba bầy sói:
- Stier (28 tháng 11, 1944 – 3 tháng 1, 1945)
- Rasmus (6 – 13 tháng 2, 1945)
- Faust (16 – 29 tháng 4, 1945)
Tóm tắt chiến công
U-286 đã đánh chìm được một tàu chiến tải trọng 1.150 tấn:
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_U-286_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó đã thực
**_U-371_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó hầu như
**Lớp tàu khu trục C và D** là một nhóm 14 tàu khu trục được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào đầu những năm 1930. Giống như những năm trước, người ta
**Lớp tàu rải mìn _Abdiel**_ bao gồm sáu tàu rải mìn nhanh của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc đã hoạt động trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Chúng đôi khi được biết đến
**HMS _Harvester_ (H19)** là một tàu khu trục lớp H, nguyên được Hải quân Brazil đặt hàng cho hãng Vickers-Armstrongs dưới tên _Jurua_ vào cuối thập niên 1930, nhưng được Hải quân Hoàng gia Anh
**Lớp tàu khu trục A** là một hải đội bao gồm tám tàu khu trục được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trong Chương trình Hải quân 1927. Một chiếc thứ chín,
**HMS _Goodall_ (K479)** là một tàu frigate lớp _Captain_ của Hải quân Hoàng gia Anh hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó nguyên được Hoa Kỳ chế tạo như chiếc **USS _Reybold_
**HMS _Hero_ (H99)** là một tàu khu trục lớp H được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào giữa những năm 1930. Trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha vào các năm 1936–1939,
**HMS _Kempenfelt_ (I18)** là một tàu khu trục lớp C được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào đầu những năm 1930. Là một soái hạm khu trục, nó đã phục vụ cho
**HMS _Decoy_ (H75)** là một tàu khu trục lớp D được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào đầu những năm 1930. Thoạt tiên được phân về Hạm đội Địa Trung Hải, nó
**HMS _Cygnet_ (H83)** là một tàu khu trục lớp C được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào đầu những năm 1930. Thoạt tiên phục vụ cùng Hạm đội Nhà, nó được tạm
**USS _Herndon_ (DD-198)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất; từng phục vụ cho Lực lượng Tuần duyên Hoa Kỳ
**HMS _Comet**_ là một tàu khu trục lớp C được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào đầu những năm 1930. Nó đã phục vụ cho Hạm đội Nhà và Hạm đội Địa
**HMS _Garland_ (H37)** là một tàu khu trục lớp G được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc vào giữa những năm 1930. Nó trải qua một phần lớn thời gian tại vùng
**HMS _Hurricane_ (H06)** là một tàu khu trục lớp H, nguyên được Hải quân Brazil đặt hàng cho hãng Vickers Armstrongs dưới tên _Japarua_ vào cuối thập niên 1930, nhưng được Hải quân Hoàng gia
**HMS _Highlander_ (H44)** là một tàu khu trục lớp H, nguyên được Hải quân Brazil đặt hàng cho hãng John I. Thornycroft and Company dưới tên _Jaguaribe_ vào cuối thập niên 1930, nhưng được Hải
**USS _Sutton_ (DE-771)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Cannon_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của
**HMS _Havelock_ (H88)** là một tàu khu trục lớp H, nguyên được Hải quân Brazil đặt hàng cho hãng J. Samuel White dưới tên _Jutahy_ vào cuối thập niên 1930, nhưng được Hải quân Hoàng
**HMS _Cotton_ (K510)** là một tàu frigate lớp _Captain_ của Hải quân Hoàng gia Anh hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó nguyên được Hoa Kỳ chế tạo như chiếc DE-81 (chưa
**HMS _Plover_ (M26)** là một tàu rải mìn duyên hải của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó đã thả trên 15.000 quả thủy lôi (mìn) trong
**Allianz Arena** () là một sân vận động bóng đá ở München, Bayern, Đức. Sân có sức chứa 70.000 chỗ ngồi cho các trận đấu quốc tế và 75.000 chỗ ngồi cho các trận đấu
**Trang Tử** (chữ Hán: 莊子; 369—286 TCN), có tên là **Mông Lại** (蒙吏), **Mông Trang** (蒙莊) hay **Mông Tẩu** (蒙叟), là một triết gia và tác gia Đạo giáo. Tên thật của ông là **Trang
nhỏ|[[Nhà máy điện mặt trời Nellis ở Hoa Kỳ, một trong những nhà máy quang điện lớn nhất ở Bắc Mỹ.]] **Năng lượng Mặt Trời**, bức xạ ánh sáng và nhiệt từ Mặt Trời, đã
**Mikoyan-Gurevich MiG-17** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-17; Tên ký hiệu của NATO: **Fresco**) là một máy bay tiêm kích phản lực cận âm sản xuất bởi Liên Xô, được đưa vào sử dụng từ