✨Trận chiến vịnh Leyte

Trận chiến vịnh Leyte

Trận chiến vịnh Leyte, còn gọi là Hải chiến vịnh Leyte, trước đây còn có tên là "Trận biển Philippine lần thứ hai", được xem là trận hải chiến lớn nhất của Thế Chiến II cũng như là một trong những trận hải chiến lớn nhất lịch sử.

Trận đánh xảy ra tại các vùng biển Philippine gần các đảo Leyte, Samar và Luzon từ ngày 23 đến ngày 26 tháng 10 năm 1944 giữa hải quân và không lực hải quân Đồng Minh chống lại Đế quốc Nhật Bản. Ngày 20 tháng 10 năm 1944, quân Mỹ bắt đầu tấn công đảo Leyte như một phần của chiến lược cô lập Nhật Bản khỏi các nước họ đã chiếm đóng tại Đông Nam Á, đặc biệt là dầu mỏ vốn là nguồn tiếp liệu sống còn của nền quân sự và công nghiệp Nhật. Hải quân Đế quốc Nhật Bản đã huy động hầu như tất cả các tàu chiến còn lại của họ nhằm đánh bại lực lượng tấn công đổ bộ Đồng Minh, nhưng đã bị Đệ Tam hạm đội và Đệ Thất hạm đội của Hải quân Hoa Kỳ đẩy lui. Hải quân Nhật đã không thể đạt được mục đích đề ra, bị thiệt hại nặng, và từ đó không thể tham chiến với một lực lượng tương đương. Đa số các tàu chiến lớn còn sống sót, do thiếu hụt nhiên liệu, hầu như phải ở lại căn cứ của chúng cho đến hết chiến tranh tại Thái Bình Dương.

Trận chiến vịnh Leyte bao gồm bốn trận hải chiến chính là: trận chiến biển Sibuyan, trận chiến eo biển Surigao, trận chiến ngoài khơi mũi Engaño và trận chiến ngoài khơi Samar cùng các hoạt động khác.

Trận chiến vịnh Leyte cũng được ghi nhận là trận đánh đầu tiên mà máy bay Nhật thực hiện các cuộc tấn công tự sát kiểu kamikaze (Thần Phong) một cách có tổ chức.

Có lẽ sự cân nhắc quan trọng cuối cùng đưa đến việc loại bỏ kế hoạch Đài Loan-Trung Quốc, như được Đô đốc King và những người khác khởi xướng, là việc tấn công Đài Loan đòi hỏi phải huy động khoảng 12 sư đoàn Lục quân và Thủy quân Lục chiến, một lực lượng vượt quá khả năng mà Mỹ có thể cung ứng được cho cả mặt trận Thái Bình Dương vào cuối năm 1944, trong khi toàn bộ Lục quân Úc còn phải đang tiếp chiến tại quần đảo Solomon, New Guinea, Đông Ấn thuộc Hà Lan và trên nhiều hòn đảo khác tại Thái Bình Dương. Một điều kiện chỉ có thể đáp ứng được sau khi Đức thua trận để có thể dành ra nhiều lực lượng hơn từ châu Âu.

Trận chiến biển Sibuyan (24 tháng 10)

nhỏ|Musashi rời [[Brunei trong tháng 10 năm 1944 tham gia Trận chiến vịnh Leyte.]] Vào khoảng 8 giờ sáng ngày 24 tháng 10, "Lực lượng Trung tâm" bị phát hiện trong khi đang di chuyển qua biển Sibuyan và bị các phi đội tiêm kích Hellcat VF-20, phi đội ném bom Helldiver VB-20 và phi đội ném ngư lôi Avenger VT-20 từ tàu sân bay USS Enterprise thuộc Đệ Tam hạm đội của Halsey tấn công. Cho dù có lực lượng vượt trội, Đệ Tam hạm đội không được chuẩn bị để đối phó mối nguy cơ này. Vào ngày 22 tháng 10, Halsey đã tách hai trong số các đội đặc nhiệm tàu sân bay của ông quay về căn cứ của hạm đội tại Ulithi để tiếp liệu và tái trang bị. Khi nhận được báo cáo của Darter về việc tiếp xúc với hạm đội đối phương, Halsey đã gọi Đội đặc nhiệm của Davison quay trở lại chiến trường, nhưng lại cho phép Đội đặc nhiệm của Phó Đô đốc McCain, đội đặc nhiệm tàu sân bay mạnh nhất của TF 38, được tiếp tục hành trình đến Ulithi. Cuối cùng vào ngày 24 tháng 10, Halsey cũng triệu hồi Đội đặc nhiệm của McCain, nhưng sự chậm trễ đó đã khiến cho đội đặc nhiệm tàu sân bay mạnh nhất Hoa Kỳ chỉ góp được phần rất nhỏ trong trận chiến quyết định, và Đệ Tam hạm đội bị suy giảm gần 40% lực lượng không quân của nó trong hầu hết thời gian của trận đánh. Vào buổi sáng ngày 24 tháng 10 chỉ có ba đội đặc nhiệm tàu sân bay có thể tấn công được vào lực lượng của Kurita, và đội có vị trí thuận lợi nhất để tấn công, Đội đặc nhiệm 38.2 của Chuẩn Đô đốc Bogan, không may thay lại là đội yếu nhất với một tàu sân bay hạm đội duy nhất là chiếc Intrepid cùng hai tàu sân bay hạng nhẹ. Việc không triệu hồi đội đặc nhiệm của McCain một cách kịp thời vào ngày 23 tháng 10 cũng làm suy yếu thêm lực lượng do thiếu bốn trong số sáu tàu tuần dương hạng nặng của Đệ Tam hạm đội cho đến hết trận chiến.

Ba chiếc thiết giáp hạm còn lại của Mỹ, do được trang bị loại radar điều khiển hỏa lực ít tiên tiến hơn, đã gặp khó khăn trong việc tìm ra vị trí khai hỏa. Maryland cuối cùng thành công qua việc nhận ra mục tiêu bằng mắt thường nhờ ánh chớp của các quả đạn pháo từ các tàu khác, đã có thể nả 48 phát đạn . Pennsylvania không thể tìm ra mục tiêu nên các khẩu pháo của nó im tiếng trong cả trận đánh.

Đúng 6 giờ 58, hải pháo của chiếc Yamato khai hỏa, bắn ra những trái đạn 3.220 cân Anh (khoảng 1.600 kg). Kurita ra lệnh "tổng tấn công", mọi tàu Nhật đổ xô vào đối thủ.

Tàu khu trục Johnston lúc đó đang ở gần đối phương nhất. Với sáng kiến của riêng mình, chỉ huy con tàu Trung tá Hải quân Ernest E. Evans lái con tàu hoàn toàn vô vọng của mình hướng thẳng vào đối thủ hết tốc độ lườn. Chiếc Johnston phóng ra một chùm ngư lôi, 2 trái trúng tuần dương hạm Kumano, nhưng chiếc Johnston trúng đạn pháo 1,6 tấn và hư hại nặng.

Thấy vậy, Sprague ra mệnh lệnh "small boys attack", tung toàn bộ phần còn lại của lực lượng tàu hộ tống của Taffy 3 vào cuộc xung đột. Hai tàu khu trục còn lại của Taffy 3, HoelHeermann, và tàu khu trục hộ tống Samuel B. Roberts đã tấn công với chủ định tự sát, thu hút về phía mình hỏa lực của đối phương và phá vỡ đội hình tàu chiến Nhật khi chúng phải chuyển hướng để tránh những quả ngư lôi. Khu trục hạm Hoel nhắm vào tàu tuần dương hạng nặng Haguro, phóng một loạt ngư lôi, nhưng sau đó bị đạn hải pháo trúng buồng máy. Khu trục hạm Harmann cũng nhắm vào chiếc Haguro, phóng một loạt ngư lôi nhưng chiếc này tránh được. Chiếc Hoel thì bị tuần dương hạm nặng Kongo cố tình đụng trúng và chìm.

Trong khi đó, Thomas Sprague ra lệnh cho tất cả sáu chiếc tàu sân bay hộ tống của ba đơn vị đặc nhiệm Taffy tung toàn bộ máy bay với bất kỳ vũ khí nào đang có, ngay cả khi chúng chỉ có súng máy hay mìn sâu chống tàu ngầm. Ông có tổng cộng khoảng 450 máy bay dưới quyền, đa số là máy bay tiêm kích FM-2 Wildcat và máy bay ném bom ngư lôi TBM Avenger. Cuộc không kích phản công hầu như tiếp diễn không ngừng nghỉ, và một số đợt không kích, đặc biệt là do Đơn vị Đặc nhiệm 77.4.2 ('Taffy 2') của Đô đốc Stump tung ra khá mãnh liệt.

Những chiếc tàu sân bay của Taffy 3 quay về hướng Nam và rút lui trong màn đạn pháo. Tàu sân bay Gambier Bay ở về phía cuối đội hình và tụt lại. Một trái rơi xuống xuyên thủng boong tàu, nổ ở buồng máy chiếc Gambier Bay, khiến chiếc này bị loại khỏi vòng chiến và chìm lúc 8 giờ 45 phút. Hầu hết các tàu sân bay khác đều bị hư hại.

Đô đốc Kurita rút lui

Sự kháng cự quyết liệt của Mỹ đã xác nhận suy đoán của phía Nhật rằng họ đang phải đương đầu với một hạm đội chủ lực chứ không phải là những tàu sân bay hộ tống và tàu khu trục. Việc lộn xộn sau khi ra lệnh "Tổng tấn công" còn nghiêm trọng hơn do các cuộc phản công bằng máy bay và ngư lôi, và soái hạm Yamato của Kurita bị buộc phải quay mũi về hướng Bắc để tránh các quả ngư lôi nên bản thân Kurita không thể bắt nhịp với diễn tiến trận đánh. Kurita bất ngờ tách ra khỏi trận đánh và ra lệnh: "mọi con tàu, theo tôi về hướng Bắc, tốc độ 20", rõ ràng để nhằm tập hợp lại hạm đội mất trật tự của mình.

Sau khi quay đầu xuống phía Nam hướng về phía vịnh Leyte một lần nữa, báo cáo tác chiến của Kurita cho biết ông nhận được một bức điện sai lầm thông báo một nhóm tàu sân bay Mỹ đang hướng lên phía Bắc nhắm vào ông. Ý muốn đưa lực lượng của mình đối đầu những tàu chiến chủ lực hơn là lực lượng vận tải, Kurita tung lực lượng ra truy đuổi, và do đó đã lỡ mất cơ hội tiêu diệt những tàu bè đổ bộ trong vịnh Leyte.

Kurita còn chịu ảnh hưởng do ông không biết rằng Ozawa đã lôi kéo được Halsey tách xa khỏi vịnh Leyte; ông vẫn tin là mình đang đối đầu các đơn vị của Đệ Tam hạm đội, và đó chỉ là vấn đề thời gian trước khi Halsey bao vây và tiêu diệt ông. Kết quả là, khi Halsey đọc bức điện, ông đã nghĩ rằng những từ cuối cùng THE WORLD WONDERS (thế giới tự hỏi) là những lời phê phán đay nghiến của Nimitz, nên ông đã phản ứng, ném mũ của mình xuống sàn tàu và "nổi cơn thịnh nộ". Chuẩn Đô đốc Robert Carney, Tham mưu trưởng, đã phải đối mặt với Halsey và quát lên: "Ngừng lại đi! Ông làm cái gì vậy? Bình tĩnh lại đi nào."

Cuối cùng, lúc 11 giờ 15 phút, tức là hơn hai giờ sau khi bức điện thảm họa đầu tiên từ Đệ Thất hạm đội đến được soái hạm của mình, Halsey ra lệnh cho Lực lượng Đặc nhiệm 34 quay mũi về phía Nam hướng đến Samar. Vào lúc này các thiết giáp hạm của Lee đã hầu như ở trong tầm bắn pháo vào lực lượng của Ozawa. Lại phải mất thêm hai giờ rưỡi tiếp tế nhiên liệu cho các tàu khu trục hộ tống trong Lực lượng Đặc nhiệm 34.

Sau khi liên tục bị trì hoãn một cách kỳ dị và ngoan cố, việc quay về quá trễ của Lực lượng Đặc nhiệm 34 không mang lại lợi ích cụ thể nào cho Đệ Thất hạm đội ngoài việc cứu vớt những người còn sống sót của Taffy 3; và cũng quá trễ để có thể đánh chặn lực lượng của Kurita trước khi chúng thoát qua eo biển San Bernardino.

Dù sao, lúc 16 giờ 22 phút, trong một cố gắng tuyệt vọng và quá trễ để can thiệp những sự kiện ngoài khơi Samar, Halsey thành lập một đội đặc nhiệm mới (TG 34.5) do Chuẩn Đô đốc Badger chỉ huy, hình thành chung quanh hai chiếc thiết giáp hạm nhanh nhất của Đệ Tam hạm đội Iowa (BB-61) và New Jersey (BB-62), những tàu chiếc có thể đạt được tốc độ tối đa 59 km/h (32 knot), cùng ba tàu tuần dương và tám tàu khu trục của Lực lượng Đặc nhiệm 34. Lực lượng này hối hả chạy về phía Nam, để lại Lee cùng bốn thiết giáp hạm còn lại theo sau. Căn cứ theo khảo sát của tác giả Morison, nếu nhóm của Badger thành công trong việc chặn "Lực lượng Trung tâm", chúng cũng sẽ bị một hỏa lực hùng hậu hơn áp đảo từ các thiết giáp hạm của Kurita.

Cuối cùng, tàu tuần dương và tàu khu trục của Đội đặc nhiệm 34.5 cũng bắt gặp và đánh chìm tàu khu trục Nowaki, kẻ tụt hậu cuối cùng trong đội hình "Lực lượng Trung tâm", ngoài khơi eo San Bernardino.

Các hoạt động cuối cùng

Khi Halsey cho quay mũi Lực lượng Đặc nhiệm 34 về hướng nam lúc 11 giờ 15 phút, ông cho tách ra một lực lượng gồm bốn tàu tuần dương và chín tàu khu trục do Chuẩn Đô đốc DuBose chỉ huy, và sáp nhập chúng vào Lực lượng Đặc nhiệm 38. Lúc 14 giờ 15 phút Mitscher ra lệnh cho DuBose truy đuổi phần còn lại của "Lực lượng phía Bắc" Nhật Bản. Các tàu tuần dương đã kết liễu chiếc tàu sân bay hạng nhẹ Chiyoda lúc khoảng 17 giờ 00 phút, và đến 20 giờ 59 phút đánh chìm được tàu khu trục Hatsuzuki sau một trận đọ súng kịch liệt.

Khi Đô đốc Ozawa biết được sự bố trí lực lượng tương đối yếu của DuBose, ông ra lệnh cho các thiết giáp hạm IseHyūga quay mũi về phía Nam để tấn công với một hỏa lực mạnh hơn hẳn, nhưng chúng đã không tìm thấy nhóm của DuBose. Quyết định của Halsey cho rút tất cả sáu thiết giáp hạm của Lee vào nỗ lực trơ trọi và quá trễ để trợ giúp Đệ Thất hạm đội, giờ đây lại đẩy Lực lượng Đặc nhiệm tàu sân bay 38 vào nguy cơ bị phản công bởi một lực lượng tàu nổi của "Lực lượng phía Bắc".

Vào khoảng 23 giờ 10 phút, tàu ngầm Mỹ Jallao phóng ngư lôi đánh chìm tàu tuần dương hạng nhẹ Tama trong lực lượng của Ozawa. Đây là hoạt động tác chiến cuối cùng trong trận chiến mũi Engaño; và ngoại trừ một số đợt không kích vào hạm đội Nhật đang rút lui trong ngày 26 tháng 10, cũng là hoạt động kết thúc Trận chiến vịnh Leyte.

Sự phê phán Halsey

nhỏ|trái|Đô đốc William F. 'Bull' Halsey, Tư lệnh Đệ Tam hạm đội Hoa Kỳ trong Trận chiến vịnh Leyte Đô đốc Halsey bị phê phán vì quyết định của ông đưa Lực lượng Đặc nhiệm 34 lên phía Bắc nhằm săn đuổi Ozawa, và đã không kịp thời tách đơn vị này ra khi Kinkaid yêu cầu trợ giúp. Một tiếng lóng lan truyền trong Hải quân Mỹ cho hành động của Halsey là 'Bull's Run', kết hợp tên thông dụng của Halsey trong báo giới "Bull" (trong Hải quân Mỹ ông được gọi là 'Bill' Halsey) cùng với sự ám chỉ đến Trận Bull Run thời Nội chiến Mỹ.

Trong bản thông báo sau trận đánh, Halsey bào chữa cho quyết định của ông như sau:

Halsey cũng tranh luận rằng ông lo ngại việc để lại Lực lượng Đặc nhiệm 34 để bảo vệ eo biển mà không có tàu sân bay hỗ trợ sẽ khiến chúng trở nên mong manh trước các đợt không kích của đối phương từ đất liền, trong khi để lại một đội tàu sân bay nhanh yểm trợ cho những chiếc thiết giáp hạm sẽ làm yếu đi đáng kể lực lượng không quân được tập trung để tấn công Ozawa.

Tuy nhiên, tác giả Morison khẳng định rằng Đô đốc Lee đã báo cáo lên rằng ông đã chuẩn bị sẵn sàng cho các thiết giáp hạm để bảo vệ eo biển San Bernardino mà không cần mọi sự hỗ trợ của tàu sân bay. Hơn nữa, nếu Halsey duy trì thông tin liên lạc chặt chẽ cùng Đệ Thất hạm đội, vẫn có phương án khả thi sử dụng lực lượng từ các tàu sân bay hộ tống của Lực lượng Đặc nhiệm 77 hỗ trợ trên không thỏa đáng cho Lực lượng Đặc nhiệm 34, một nhiệm vụ dễ hơn nhiều so với việc các tàu sân bay hộ tống phải tự vệ chống lại cuộc tấn công của các tàu chiến hạng nặng của Kurita.

Có thể tranh luận rằng trong thực tế Halsey đang trên một thiết giáp hạm, và "cảm giác bị tụt lại phía sau" cùng Lực lượng Đặc nhiệm 34 (trong khi phần lớn hạm đội tấn công lên phía Bắc) góp phần vào quyết định này, nhưng trong mọi tình huống đây chỉ là thứ yếu. Người ta đã chỉ ra rằng, cách rất hiện thực hoàn hảo và hợp lý, là chỉ cần lấy đi một hoặc hai thiết giáp hạm nhanh nhất của Đệ Tam hạm đội (IowaNew Jersey) hợp cùng các tàu sân bay nhằm truy đuổi Ozawa, trong khi có thể để lại hầu hết hàng thiết giáp hạm ngoài khơi eo San Bernardino (thực ra, kế hoạch nguyên thủy của Halsey về thành phần của Lực lượng Đặc nhiệm 34 chỉ bao gồm bốn chứ không phải tất cả sáu thiết giáp hạm của Đệ Tam hạm đội); do đó, việc phòng thủ eo San Bernardino với một lực lượng thiết giáp hạm mạnh không mâu thuẫn với ý muốn riêng của Halsey đích thân đi lên phía Bắc trên chiếc New Jersey.

Có lẽ một nhân tố quan trọng trong quyết định này là do bản thân Halsey có xu hướng không muốn tách rời lực lượng của mình; ông có niềm tin sâu sắc vào sự tập trung lực lượng, như được phản ảnh trong những bài viết trước và sau Thế chiến II, cũng như trong những bài báo và phỏng vấn nhằm biện hộ cho quan điểm và các hoạt động của mình. Thêm vào đó, có thể Halsey chịu ảnh hưởng bởi những lời phê phán Đô đốc Spruance, người bị đa số cho là đã quá thận trọng trong Trận chiến biển Philippine nên đã để cho hầu hết Hạm đội Nhật Bản chạy thoát. Và dường như là Halsey cũng bị ảnh hưởng bởi Chuẩn Đô đốc Robert "Mick" Carney, Tham mưu trưởng của ông, người cũng toàn tâm toàn ý huy động mọi lực lượng có được của Đệ Tam hạm đội về phía Bắc để tấn công lực lượng tàu sân bay Nhật.

Tuy nhiên, với những thông tin mà ông có được, Halsey đã có những lý do cụ thể và dễ hiểu cho hành động của mình. Trước tiên, ông tin rằng lực lượng của Đô đốc Kurita đã bị thiệt hại nghiêm trọng hơn nhiều so với thực tế. Trong khi có thể giả định rằng Halsey phải xem xét việc lực lượng của Kurita tiếp tục tiến quân như là một chỉ thị cho thấy chúng vẫn là mối đe dọa nghiêm trọng, không thể ủng hộ quan điểm này khi xem xét thái độ công khai của binh lính Nhật Bản cứ khăng khăng nỗ lực một cách tuyệt vọng đến mức gần như tự sát. Do đó theo sự ước lượng của Halsey, lực lượng đã bị suy yếu của Kurita là nằm trong khả năng đối phó của Đệ Thất hạm đội, không đáng để chia tách lực lượng tấn công của mình.

Kế tiếp, Halsey không hề biết, cũng như bất cứ người nào khác trong Hải quân Mỹ, rằng không lực hải quân Nhật đang trong tình trạng tệ hại như thế nào, và lực lượng nhử mồi của Ozawa đã gần như cạn kiệt máy bay. Halsey đã cân nhắc, theo cách có thể hiểu được và bảo thủ một cách thận trọng, rằng lực lượng của Ozawa vẫn còn có khả năng tung ra các cuộc không kích nghiêm trọng. Halsey sau đó giải thích một phần các hành động của ông khi tuyên bố dứt khoát rằng ông không muốn bị "ném bom con thoi" bởi lực lượng của Ozawa (một thuật ngữ kỹ thuật trong đó máy bay sau khi tấn công có thể hạ cánh và tái trang bị tại các căn cứ ở cả hai bên của kẻ thù, cho phép chúng tấn công ở cả lượt đi và lượt về) hoặc cho chúng cơ hội "bắn tự do" xuống các lực lượng đổ bộ Mỹ trong vịnh Leyte. Rõ ràng là ông đã không có mối quan tâm tương đương khi để cho các thiết giáp hạm và tàu tuần dương của Kurita cơ hội "bắn tự do" xuống cùng các lực lượng đó.

Thực tế là Halsey đã nhận định theo cách xem ra quá thận trọng về các tàu sân bay của Ozawa, và một nhận định theo cách hoàn toàn trái ngược về các thiết giáp hạm của Kurita, có thể phản ảnh xu hướng dễ hiểu thiên về các tàu sân bay là mối đe dọa chính của cuộc chiến. Tại vịnh Leyte, Halsey đã không thể đánh giá đầy đủ rằng trong một số hoàn cảnh, thiết giáp hạm và tàu tuần dương vẫn có thể rất nguy hiểm; và mỉa mai thay, chính qua sai lầm không thông tin đầy đủ ý định của mình, ông đã khiến cho những hoàn cảnh đó trở thành hiện thực.

Clifton Sprague, chỉ huy trưởng Đơn vị Đặc nhiệm 77.4.3 trong trận chiến ngoài khơi Samar, sau này đã phê phán một cách quyết liệt quyết định của Halsey, và việc không thông báo rõ ràng cho Kinkaid và Đệ Thất hạm đội rằng sườn phía Bắc của họ không còn được bảo vệ:

Nhận định việc Halsey đã không chuyển hướng Lực lượng Đặc nhiệm 34 về phía Nam kịp thời sau khi nhận được điện cầu cứu của Đệ Thất hạm đội ngoài khơi Samar, Morison cho rằng:

Có lẽ lời bình luận chân thật nhất được Phó Đô đốc Lee nêu ra ngắn gọn trong bản báo cáo tác chiến của Tư lệnh Lực lượng Đặc nhiệm 34:

Hậu quả và sau đó

nhỏ|phải|Buổi lễ kỷ niệm 60 năm trận chiến tại [[Tacloban, Philippines, ngày 20 tháng 10 năm 2004]] Trận chiến vịnh Leyte đã giúp giữ vững các bãi đổ bộ của Tập đoàn quân 6 Lục quân Hoa Kỳ trên đảo Leyte trước sự tấn công từ phía biển. Tuy nhiên, cuộc chiến trên bộ vẫn còn tiếp diễn gay go cho đến khi Đồng Minh kiểm soát hoàn toàn hòn đảo vào cuối tháng 12 năm 1944. Trận Leyte trên bộ được tiến hành song song với các chiến dịch trên không và ngoài biển, trong đó quân Nhật nỗ lực tăng viện và tiếp tế cho quân đồn trú tại Leyte, trong khi Đồng Minh ra sức ngăn cản và giành ưu thế trên không và trên biển cho một loạt các cuộc đổ bộ lên vịnh Ormoc, các cuộc đụng độ thường được biết đến dưới tên gọi Trận chiến vịnh Ormoc.

Hải quân Đế quốc Nhật Bản chịu đựng tổn thất to lớn nhất kể từ thời đại Minh Trị duy tân. Thất bại của họ không đánh đuổi được lực lượng xâm chiếm Đồng Minh khỏi Leyte đồng nghĩa với việc mất Philippines không sao tránh khỏi, mà điều này sẽ dẫn đến việc Nhật Bản sẽ bị cắt đứt khỏi những lãnh thổ chiếm đóng tại Đông Nam Á. Những nơi này đang cung cấp nguồn nguyên liệu sống còn cho Nhật Bản, đặc biệt là xăng dầu cho tàu chiến và máy bay, và vấn đề này càng thêm trầm trọng vì các xưởng tàu và nguồn tiếp liệu khác như đạn dược đều ở ngay tại chính quốc. Cuối cùng, việc mất Leyte đã mở đường cho việc tấn công quần đảo Ryukyu trong năm 1945.

Hầu hết lực lượng tàu nổi của Hải quân Nhật quay trở về căn cứ của chúng trong trạng thái hư hỏng, hầu như không hoạt động cho đến hết chiến tranh. Chiến dịch duy nhất của các tàu chiến này từ lúc trận chiến vịnh Leyte Gulf kết thúc cho đến khi Nhật Bản đầu hàng là chuyến đi thảm họa và bi đát vào tháng 4 năm 1945 trong Chiến dịch Ten-Go (Ten-gō sakusen) khi thiết giáp hạm Yamato cùng một số tàu hộ tống bị các tàu sân bay Mỹ tiêu diệt.

Máy bay tấn công tự sát kamikaze lần đầu tiên được sử dụng sau cuộc đổ bộ lên Leyte, khi một máy bay đã đánh trúng tàu tuần dương hạng nặng Úc HMAS Australia ngày 21 tháng 10. Việc tấn công tự sát có tổ chức bởi "Lực lượng Tấn công Đặc biệt" bắt đầu vào ngày 25 tháng 10 trong giai đoạn kết thúc của trận chiến ngoài khơi Samar đã phá hủy tàu sân bay hộ tống USS St. Lo.

J.F.C. Fuller, trong tác phẩm của ông 'The Decisive Battles of the Western World', đã viết về kết quả của trận chiến vịnh Leyte:

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trận chiến vịnh Leyte**, còn gọi là **Hải chiến vịnh Leyte**, trước đây còn có tên là "Trận biển Philippine lần thứ hai", được xem là trận hải chiến lớn nhất của Thế Chiến II
**Trận chiến vịnh Ormoc** là một loạt các trận chiến diễn ra giữa Hải-Không quân Đế quốc Nhật Bản và Hoa Kỳ tại biển Camotes thuộc Philippines trong khoảng thời gian từ 11 tháng 11
**Hải chiến ngoài khơi Samar** hay **Trận Samar** là trận đánh mang tính quan trọng trong thời gian diễn ra cuộc Hải chiến vịnh Leyte, một trong những trận hải chiến lớn nhất trong lịch
**_Zuihō_** (kanji: 瑞鳳, âm Hán-Việt: Thụy phụng, nghĩa là "_chim phượng tốt lành_") là một tàu sân bay hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó được đặt lườn vào năm 1934 như
**Danh sách các trận chiến** này được liệt kê mang **tính địa lý, theo từng quốc gia với lãnh thổ hiện tại**. ## Áo * Trận đồng Marchfeld (**Trận Dürnkrut và Jedenspeigen**) - 1278 *
**USS _Enterprise_ (CV-6)**, còn có tên lóng là "Big E", là chiếc tàu sân bay thứ sáu của Hải quân Hoa Kỳ và là một trong tám tàu chiến của Hải quân Mỹ được đặt
**Trận chiến biển Philippines** (hay còn được gọi là **"Cuộc bắn gà ở quần đảo Mariana"**) là trận hải chiến trong Chiến tranh thế giới thứ hai giữa hải quân Đế quốc Nhật Bản và
**Trận Leyte** trong chiến dịch Thái Bình Dương, Chiến tranh thế giới thứ hai là một cuộc đổ bộ và chiến đấu giành sự kiểm soát Leyte thuộc quần đảo Philippines bởi lực lượng Mỹ
**USS _Leyte_ (CV/CVA/CVS-32, AVT-10)** là một trong số 24 tàu sân bay thuộc lớp _Essex_ của Hải quân Hoa Kỳ được hoàn tất trong hoặc ngay sau Thế Chiến II, và là chiếc tàu chiến
**Danh sách các trận đánh Nhật Bản** là danh sách được sắp xếp ra theo từng năm, từng thời kỳ trong lịch sử Nhật Bản. ## Thời kỳ Yayoi * Hậu kỳ Thế kỷ 2:
**USS _Intrepid_ (CV/CVA/CVS-11)** là một trong số 24 tàu sân bay thuộc lớp _Essex_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Thế Chiến II. Nó là chiếc tàu chiến thứ tư của Hải quân
**_Musashi_** (tiếng Nhật: 武蔵, _Vũ Tàng_), tên được đặt theo tên một tỉnh cũ của Nhật Bản, là một thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Thế Chiến II, và là
**_I-46_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C2 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**Trận hải chiến Guadalcanal** hay theo như cách gọi của Nhật Bản là **Dai Sanji Solomon Kaisen** (第三次ソロモン海戦, だいさんじソロモンかいせん; _Hải chiến Solomon lần thứ ba_), diễn ra từ ngày 12 đến ngày 15 tháng 11
nhỏ|Khu vực Tây Nam Thái Bình Dương, theo định nghĩa của [[Bộ tổng tham mưu Liên quân Hoa Kỳ]] nhỏ|Tuần dương hạm _Canberra_ của Úc (bên trái) bảo vệ 3 tàu vận tải Đồng Minh
**Trận Iwo Jima** (, , 19 tháng 2 — 26 tháng 3 năm 1945) là trận đánh lớn thuộc mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh thế giới thứ hai giữa Hoa Kỳ và
**Chiến dịch Philippines 1944-1945** hay **Trận chiến trên quần đảo Philippines 1944-1945** là một chiến dịch của quân Đồng Minh tiến hành trong Chiến tranh thế giới thứ hai nhằm đánh bại lực lượng Nhật
**Trận Okinawa** (tiếng Anh: Battle of Okinawa, tiếng Nhật: 沖縄戦, Okinawa-sen), hay còn gọi là **chiến dịch Iceberg** (**chiến dịch Băng Sơn**) là trận đánh thuộc mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh thế
**USS _Minneapolis_ (CA-36)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _New Orleans_, là chiếc tàu chiến thứ hai được đặt tên theo thành phố Minneapolis thuộc tiểu bang
là cuộc tổng phản công của Hải quân Đế quốc Nhật Bản nhằm vào lực lượng Đồng Minh tại Okinawa. Đây cũng là trận đụng độ không quân - hải quân cuối cùng giữa hải
**_I-56_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944, nó hoạt động
**_I-45_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó hoạt động
**_I-38_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó đã từng tham
**USS _New Orleans_ (CA-32)** (trước là **CL-32**) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó. Tên của nó được đặt theo thành phố
**_Myōkō_** (tiếng Nhật: 妙高) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm bốn chiếc; những chiếc còn lại trong
**Tỉnh Leyte** (còn gọi là **Tỉnh Bắc Leyte**; tiếng Filipino: Hilagang Leyte) là một tỉnh của Philippines ở vùng Đông Visayas. Thủ phủ là Thành phố Tacloban. Tỉnh chiếm 3/4 diện tích của đảo Leyte.
**USS _Chester_ (CL/CA-27)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc thứ hai trong lớp _Northampton_, và là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ được đặt
Đảo Leyte tại Philippines **Đảo Leyte** là một hòn đảo thuộc khu vực Visayas của Philippines. Hòn đảo bao gồm hai tỉnh là Tỉnh Leyte và Tỉnh Nam Leyte. ## Địa lý Hòn đảo Leyte
nhỏ|phải|Các tàu khu trục _Shigure_ và [[Samidare (tàu khu trục Nhật)|_Samidare_ hoạt động ngoài khơi bờ biển Bougainville trong quần đảo Solomon, vài giờ trước trận Hải chiến Vella Lavella vào ngày 7 tháng 10
**_Hatsushimo_** (tiếng Nhật: 初霜) là một tàu khu trục hạng nhất thuộc lớp _Hatsuharu_ bao gồm sáu chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, được chế tạo trong những năm 1931-1933. _Hatsushimo_ đã tham
**_Haguro_** (tiếng Nhật:羽黒) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc cuối cùng trong lớp _Myōkō_ bao gồm bốn chiếc; những chiếc còn lại trong lớp này
**Chiến dịch Hailstone** (tiếng Nhật:トラック島空襲, _Torakku-tō Kūshū,_ tức _Không kích tại Đảo Truk_) là một chiến dịch không kích/bắn phá lớn của Hải quân Hoa Kỳ nhằm vào lực lượng Hải quân Đế quốc Nhật
phải|Tàu khu trục _Ushio_ nhìn bên mạn tàu **_Ushio_** (tiếng Nhật: 潮) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc,
**_Akebono_** (tiếng Nhật: 曙) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế
**_Yukikaze_** (tiếng Nhật: 雪風) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Kagerō_ đã phục vụ tại Mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh Thế giới
**HMAS _Australia_ (D84)** là một tàu tuần dương hạng nặng thuộc lớp _County_, được chế tạo tại Anh Quốc thuộc lớp phụ _Kent_, để hoạt động cùng Hải quân Hoàng gia Australia. _Australia_ đã tham
**_Yamagumo_** (tiếng Nhật: 山雲) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp tàu khu trục _Asashio_ bao gồm mười chiếc được chế tạo vào giữa những năm
**USS _West Virginia_ (BB-48)** (tên lóng "Wee Vee"), là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Colorado_, và là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này nhằm tôn
**USS _Wasp_ (CV/CVA/CVS-18)** là một trong số 24 tàu sân bay thuộc lớp _Essex_ được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ trong Thế Chiến II, và là chiếc tàu chiến thứ chín của Hải
**USS _Gambier Bay_ (CVE-73)** là một tàu sân bay hộ tống lớp _Casablanca_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai; tên nó được đặt theo một vịnh tại
**USS _Bagley_ (DD-386)** là một tàu khu trục, chiếc dẫn đầu của lớp _Bagley_, được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải
**_Kongō_** (tiếng Nhật: 金剛, Kim Cương) là chiếc tàu chiến-tuần dương đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc kiểu siêu-Dreadnought, là chiếc dẫn đầu của lớp Kongō bao gồm những chiếc _Hiei_,
**USS _Tennessee_ (BB-43)** là một thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ trong Thế chiến II, là chiếc dẫn đầu trong lớp tàu của nó, và là chiếc tàu chiến thứ ba của hải
**USS _White Plains_ (CVE-66)** là một tàu sân bay hộ tống lớp _Casablanca_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai; tên nó được đặt theo White Plains, New
**USS _Pennsylvania_ (BB-38)** là một thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó thuộc thế hệ các thiết giáp hạm "siêu-dreadnought"; và là chiếc tàu chiến thứ
**USS _Petrof Bay_ (CVE–80)** là một tàu sân bay hộ tống lớp _Casablanca_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên nó được đặt theo một vịnh nhỏ
**USS _John C. Butler_ (DE-339)** là một tàu hộ tống khu trục, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu mang tên nó, từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới
**USS _Louisville_ (CA-28)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc thứ ba trong lớp _Northampton_, và là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Mỹ được đặt
**USS _San Jacinto_ (CVL-30)** là một tàu sân bay hạng nhẹ của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _Independence_, và là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ mang cái tên này. Hoạt
**USS _Benham_ (DD-796)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Mỹ