✨Trận chiến vịnh Ormoc

Trận chiến vịnh Ormoc

Trận chiến vịnh Ormoc là một loạt các trận chiến diễn ra giữa Hải-Không quân Đế quốc Nhật Bản và Hoa Kỳ tại biển Camotes thuộc Philippines trong khoảng thời gian từ 11 tháng 11 đến 21 tháng 12 năm 1944, một phần của chiến dịch Leyte của chiến tranh Thái Bình Dương trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Trận đánh là kết quả việc người Mỹ tìm mọi cách ngăn chặn những hành động của quân Nhật nhằm củng cố lực lượng và chi viện cho lực lượng của họ đóng trên đảo Leyte.

Bối cảnh

Sau những thành công trong việc kiểm soát vùng biển của Hải quân ở chiến trường Tây Thái Bình Dương vào giữa năm 1944, quân Đồng Minh quyết định tấn công quần đảo Philippines vào tháng 10, bằng cuộc đổ bộ lên bờ biển phía Đông của đảo Leyte từ vịnh Leyte ngày 20 tháng 10-1944. Tại Leyte lực lượng của Nhật bao gồm 20.000 lính; Tướng Douglas MacArthur cho rằng việc chiếm được Leyte sẽ là mở đầu cho các chiến dịch sau này tại đảo Luzon. Về phía Nhật, quyền kiểm soát Philippines là vấn đề sống còn vì nếu mất nơi này, Đồng Minh sẽ dễ dàng cắt đứt chính quốc Nhật với nguồn nhiên liệu quan trọng tại Borneo.

Đáp lại Hải quân Đế quốc Nhật Bản tập hợp các hạm đội của mình tổ chức tấn công dẫn đến trận chiến vịnh Leyte trong khoảng thời gian từ 23 tháng 10 và 26 tháng 10. Trong cuộc đụng độ giữa hai lực lượng Hải quân khổng lồ này, Nhật Bản đã tiêu diệt một lực lượng đáng kể các tàu chiến của Mỹ. Tuy nhiên, bất chấp những dấu hiệu suy yếu chưa rõ ràng của quân Mỹ, vị chỉ huy quân Nhật ở Philippines, Tướng Tomoyuki Yamashita, tin rằng Hải quân Hoa Kỳ đã chịu thiệt hại nghiêm trọng và quân Đồng Minh trở nên dễ bị tấn công hơn bao giờ hết. Vì vậy, ông chủ động tăng cường và củng cố lực lượng trên đảo Leyte; trong trận đánh lực lượng Nhật gồm có 9 tàu hộ tống chuyên chở thành công 34.000 lính của các Sư đoàn 1, 8, 26, 30, và 102. Thành phố Ormoc nằm ngay bên bờ biển thuộc vịnh Ormoc phía Tây đảo Leyte là hải cảng chính của đảo và là điểm đến cuối cùng của các tàu hộ tống.

Bên cạnh đó, việc giải mã những tin tức tình báo nhờ hệ thống PURPLE đã báo động quân Đồng Minh về một sự tập trung bất thường một số lượng lớn tàu Nhật xung quanh Leyte, nhưng ban đầu người Mỹ lại cho rằng đây là một cuộc sơ tán khẩn cấp của đối phương. Tuy nhiên, trong tuần đầu tiên của tháng 11 họ nhận ra quân Nhật đang ra sức củng cố và chi viện cho các căn cứ trên đảo Leyte và liền ngay sau đó Hải quân Mỹ đã có hành động ngăn chặn kịp thời.

Các chiến dịch

TA-3 và TA-4 (Nhật)

Trong hai ngày 8 và 9 tháng 11, người Nhật xuất phát hai đoàn tàu hộ tống từ Manila đến vịnh Ormoc. Hai đoàn tàu phải đi cách nhau một ngày đường để các tàu khu trục có thể hộ tống đoàn tàu thứ nhất cho đến khi trở về rồi hộ tống đoàn còn lại. Tuy nhiên, kế hoạch bị thất bại vì bị phát hiện bởi các máy bay trinh sát của Đệ tam Hạm đội Hoa Kỳ và sau đó Đô Đốc William F. Halsey ra lệnh xuất kích 350 máy bay của Biệt đội phản ứng nhanh 38 tấn công đội tàu liên hợp của Nhật ngày 11 tháng 11.

Bốn tàu khu trục bao gồm — Shimakaze, Wakatsuki, Hamanami và Naganami — cùng 5 tàu vận tải bị đánh chìm. Chuẩn Đô Đốc Mikio Hayakawa đã hi sinh cùng với tàu Shimakaze.

TA-5 (Nhật)

Đoàn tàu TA-5 rời Manila ngày 23 tháng 11 để đến cảng Cataingan và cảng Balancan. Trong 6 chiếc tàu vận tải có đến 5 chiếc bị đánh chìm bởi máy bay Mỹ.

TA-6 (Nhật)

Hai tàu vận tải được hộ tống bởi ba tàu tuần tiễu rời Manila ngày 27 tháng 11. Họ bị tấn công bởi các tàu cao tốc của Mỹ tại vịnh Ormoc trong đêm 28 tháng 11 và bị tấn công bởi không quân trong lúc rời khỏi vùng biển này. Tất cả năm tàu đều bị đánh chìm.

Khi đoàn tàu thả neo gần thành phố Ormoc thì chạm trán Hải quân Mỹ lúc 00:09 ngày 3 tháng 12 với các tàu chiến thuộc Sư đoàn Khu trục 120 do Đại tá John C. Zahm chỉ huy (USS Allen M. Sumner (DD-692), USS Cooper (DD-695) và USS Moale (DD-693)).

Các tàu chiến Mỹ đánh chìm các tàu vận tải của Nhật khi chúng đang chuyển thiết bị lên bờ thì vấp phải hỏa lực mạnh mẽ từ Yokosuka P1Y các máy bay ném bom của "Pháp", công sự trên đất liền, tàu ngầm, và từ tàu khu trục của Nhật. Chiếc Kuwa bị chìm và chỉ huy Yamashita hi sinh. Còn chiếc tàu Take bất ngờ tấn công chiếc Cooper bằng ngư lôi rồi chạy thoát mặc dù bị hư hại. Chiếc Cooper chìm ngay sau đó lúc 00:15 cùng với thủy thủ đoàn 191 người (168 thủy thủ sau đó được cứu vào ngày 4 tháng 12 bởi những chiếc máy bay PBY Catalina). Lúc 00:33, hai tàu khu trục còn lại của Mỹ được lệnh ngay lập tức rời khỏi vịnh. Đây là lần duy nhất trong trận vịnh Ormoc và trong chiến tranh mà Hải quân Mỹ phải cùng một lúc đối phó với nhiều loại vũ khí từ đối phương: hải pháo, không tập, tàu ngầm, pháo từ đất liền và mìn.

Lính Mỹ đổ bộ lên vịnh Ormoc

[[USS Lamson (DD-367) đang bốc cháy ở vịnh Ormoc ngày 7 tháng 12-1944, sau khi bị một máy bay thần phong đâm trúng. Chiếc tàu kéo đang hỗ trợ chữa lửa có lẽ là chiếc USS ATR-31.]]

Ngày 5 tháng 12-1944, Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ đổ bộ lên Vịnh San Pedro, 27 dặm (43 km) về phía Nam của thành phố Ormoc. Các phương tiện đổ bộ và hỗ trợ di chuyển trước các cuộc tấn công thần phong. Kết quả là 15 phương tiện đổ bộ bị chìm, và hai tàu khu trục USS Mugford (DD-389) và USS Drayton (DD-366) bị đánh trúng, chịu tổn thất 50 người.

Ngày 7 tháng 12, Sư đoàn Bộ binh 77, chỉ huy bởi Thiếu tướng Andrew D. Bruce đổ bộ lên thị trấn Albuera, cách thành phố Ormoc 3,5 dặm (5,6 km) về hướng Nam. Các Trung đoàn 305, 306, và 307 thuộc Sư đoàn 77 tiến lên bờ mà không gặp trở ngại nào nhưng các tàu Hải quân liên tục ở ngoài liên phải chống chọi với các cuộc tấn công tự sát thần phong dẫn đến thiệt hại tàu khu trục USS Ward (DD-139) và USS Mahan (DD-364).

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trận chiến vịnh Ormoc** là một loạt các trận chiến diễn ra giữa Hải-Không quân Đế quốc Nhật Bản và Hoa Kỳ tại biển Camotes thuộc Philippines trong khoảng thời gian từ 11 tháng 11
**Trận chiến vịnh Leyte**, còn gọi là **Hải chiến vịnh Leyte**, trước đây còn có tên là "Trận biển Philippine lần thứ hai", được xem là trận hải chiến lớn nhất của Thế Chiến II
**Trận Leyte** trong chiến dịch Thái Bình Dương, Chiến tranh thế giới thứ hai là một cuộc đổ bộ và chiến đấu giành sự kiểm soát Leyte thuộc quần đảo Philippines bởi lực lượng Mỹ
**USS _Cooper_ (DD-695)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải
**USS _Moale_ (DD-693)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải
**Chiến dịch Philippines 1944-1945** hay **Trận chiến trên quần đảo Philippines 1944-1945** là một chiến dịch của quân Đồng Minh tiến hành trong Chiến tranh thế giới thứ hai nhằm đánh bại lực lượng Nhật
**USS _Howorth_ (DD-592)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**_I-46_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C2 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**USS _Waller_ (DD-466/DDE-466)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
nhỏ|phải|Một tấm ảnh khác về tàu khu trục _Uranami_ **_Uranami_** (tiếng Nhật: 浦波) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn
**USS _Nicholas_ (DD-449/DDE-449)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**_Naganami_** (tiếng Nhật: 長波) là một tàu khu trục thuộc lớp _Yūgumo_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, từng hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. _Naganami_ được đặt lườn tại Xưởng
**USS _Eaton_ (DD-510/DDE-510)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Conner_ (DD-582)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**_Hatsuharu_** (tiếng Nhật: 初春) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu khu trục _Hatsuharu_ bao gồm sáu chiếc được chế tạo
Ngày **21 tháng 12** là ngày thứ 355 (356 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 10 ngày trong năm.Trong tiết khí, ngày này hoặc ngày 22 tháng 12 là ngày đông chí. ## Sự
**USS _Allen M. Sumner_ (DD-692)** là chiếc dẫn đầu của lớp tàu khu trục mang tên nó được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu
**USS _Smith_ (DD–378)** là một tàu khu trục lớp _Mahan_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được
**USS _Mahan_ (DD-364)** là một tàu khu trục, chiếc dẫn đầu trong lớp của nó được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của
**USS _Edwards_ (DD-619)** là một tàu khu trục lớp _Gleaves_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã tham gia suốt Thế Chiến II, sống sót qua
**USS _Reid_ (DD-369)** là một tàu khu trục lớp _Mahan_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Hoa Kỳ được
**USS _Cony_ (DD-508/DDE-508)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Renshaw_ (DD-499/DDE-499)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Mỹ
**USS _Kephart_ (DE-207/APD-61)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Buckley_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên nó được đặt theo Đại úy Hải quân
**USS _Conyngham_ (DD-371)** là một tàu khu trục lớp _Mahan_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được
**USS _Lamson_ (DD-367)** là một tàu khu trục lớp _Mahan_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Hoa Kỳ được
**USS _Walke_ (DD-723)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải
**USS _O'Brien_ (DD-725)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ tư của Hải
**USS _Fletcher_ (DD/DDE-445)** là chiếc dẫn đầu của lớp tàu khu trục _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của
**USS _Laffey_ (DD-724)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải
**USS _Drayton_ (DD-366)** là một tàu khu trục lớp _Mahan_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được
**USS _Hughes_ (DD-410)** là một tàu khu trục lớp _Sims_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai; nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân
**USS _Flusser_ (DD-368)** là một tàu khu trục lớp _Mahan_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ tư của Hải quân Hoa Kỳ được
là tàu khu trục lớp Akizuki của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên nó ấy có nghĩa là "Trăng Non". ## Thiết kế và mô tả Các _tàu_ lớp _Akizuki_ ban đầu được thiết
**USS _Barton_ (DD-722)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải
**USS _Halford_ (DD-480)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Conway_ (DD-507/DDE-507)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**USS _Preston_ (DD-795)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ sáu của Hải quân Mỹ
**USS _Crosby_ (DD–164/APD-17)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau được cải biến thành tàu vận chuyển cao tốc
**USS _Natoma Bay_ (CVE–62)** là một tàu sân bay hộ tống lớp _Casablanca_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai; tên nó được đặt theo vịnh Natoma tại
**USS _Schley_ (DD-103/APD-14)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và sau được cải biến thành tàu vận chuyển cao
**USS _Lloyd_ (DE-209/APD-63)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Buckley_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên nó được đặt theo Thiếu úy Hải quân
**USS _Coghlan_ (DD-606)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Benson_ của Hải quân Hoa Kỳ đã phục vụ trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của
**USS _Cofer_ (DE-208/APD-62)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Buckley_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên nó được đặt theo thủy thủ John Joseph
**USS _Newcomb_ (DD-586)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Caldwell_ (DD-605)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Benson_ của Hải quân Hoa Kỳ đã phục vụ trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của
là một trong những lớp khu trục hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản (IJN) sau năm 1942. Hải quân Nhật xếp loại lớp Akizuki là và được thiếc kế để chống máy bay,
Đại tá **Gerald Richard Johnson** (23 tháng 6 năm 1920 – 7 tháng 10 năm 1945) là một phi công ACE của Không lực Lục quân Hoa Kỳ. Johnson là chỉ huy trưởng Phi đoàn
**USS _Pringle_ (DD-477)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Ward_ (DD-139/APD-16)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế giới