Yukikaze (tiếng Nhật: 雪風) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp Kagerō đã phục vụ tại Mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là thành viên duy nhất còn sống sót của lớp tàu này; và sau chiến tranh, nó tiếp tục phục vụ cho Hải quân Trung Hoa dân quốc dưới tên gọi Đan Dương (丹陽) (DD-12) trước khi bị tháo dỡ vào năm 1970.
Yukikaze
nhỏ|trái|Yukikaze
Vào đầu cuộc chiến Yukikaze đã tham gia cuộc xâm chiếm Philippines và Đông Ấn thuộc Hà Lan. Sau đó nó cũng tham gia Trận Midway, Trận chiến quần đảo Santa Cruz, Trận chiến biển Philippine và Trận chiến vịnh Leyte, cũng như các hoạt động vận chuyển binh lính kéo dài trong Chiến dịch Guadalcanal và các trận hải chiến chung quanh hòn đảo này. Yukikaze cũng sống sót qua Chiến dịch Ten-Go, cuộc tấn công mang tính tự sát vào lực lượng Hoa Kỳ đang đổ bộ tại Okinawa, trong đó thiết giáp hạm Yamato bị đánh chìm.
Giữa hai cuộc đối đầu lớn này, Yukikaze tham gia nhiều hoạt động hộ tống, đặc biệt là trong việc bố trí chiếc tàu sân bay khổng lồ Shinano lúc mà chiếc tàu vừa mới hoàn tất này bị tàu ngầm Archer Fish phóng ngư lôi đánh chìm. Nó trải qua những tháng cuối cùng của cuộc chiến tranh bảo vệ các cảng Nhật Bản, và đã sống sót qua nhiều cuộc không kích của Đồng Minh.
Yukikaze được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 5 tháng 10 năm 1945.
Sau chiến tranh, nó được sử dụng vào việc hồi hương binh lính Nhật Bản còn trú đóng ở nước ngoài. Cùng với Hibiki và Ushio, Yukikaze là một trong những tàu duy nhất còn sống sót trong tổng số 82 tàu khu trục Nhật Bản được đóng trước chiến tranh.
ROCS Đan Dương
Vào ngày 6 tháng 7 năm 1947, Yukikaze được chuyển cho Trung Hoa dân quốc tại Thượng Hải như một chiếc lợi phẩm, và được đổi tên thành Đan Dương (丹陽) (DD-12). Sau thêm hai thập niên phục vụ, nó được cho ngừng hoạt động sau khi bị mắc cạn bởi một cơn bão vào năm 1966; và sau khi những nỗ lực vận động đưa nó quay trở về Nhật Bản để bảo tồn như một tàu bảo tàng bị thất bại, Đan Dương bị tháo dỡ vào năm 1970. Bánh lái và một trong các mỏ neo của nó được đưa trả về Nhật Bản, nơi Yukikaze rất nổi tiếng và thường được gọi là "con tàu không thể chìm". Nó cùng với Верный (Hibiki) và JDS Wakaba (Nashi) là ba chiếc tàu cuối cùng của Hải quân Đế chế Nhật đã tham gia và sống sót Thế chiến thứ II
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Yukikaze_** (tiếng Nhật: 雪風) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Kagerō_ đã phục vụ tại Mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh Thế giới
nhỏ|phải|Các tàu khu trục _Shigure_ và [[Samidare (tàu khu trục Nhật)|_Samidare_ hoạt động ngoài khơi bờ biển Bougainville trong quần đảo Solomon, vài giờ trước trận Hải chiến Vella Lavella vào ngày 7 tháng 10
**_Hatsuzuki_** (tiếng Nhật: 初月 - _Sơ Nguyệt)_ là một khu trục hạm lớp _Akizuki_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Là con tàu thứ tư của lớp _Akizuki_, _Hatsuzuki_ đã tham chiến tích cực
**Lớp tàu khu trục _Kagerō**_ (tiếng Nhật: 陽炎型駆逐艦, _Kagerō-gata Kuchikukan_) là một lớp bao gồm mười chín tàu khu trục hạng nhất đã phục vụ cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh
**_Jintsū_** (tiếng Nhật: 神通) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Sendai_. Tên của nó được đặt theo sông Jinzu tại tỉnh Gifu và Toyama ở
**_Yahagi_** (tiếng Nhật: 矢矧) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Agano_ đã phục vụ cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. _Yahagi_ đã bị máy
**_Kiso_** (tiếng Nhật: 木曽) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ năm và là chiếc cuối cùng trong lớp _Kuma_ class, và đã từng hoạt
**_ Kinu_** (tiếng Nhật: 鬼怒) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Nagara_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên của nó được đặt theo sông Kinu trong tỉnh Tochigi của Nhật
**_Naka_** (tiếng Nhật: 那珂) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Sendai_. Tên của nó được đặt theo sông Naka tại tỉnh Tochigi và Ibaraki ở
**_Ryūhō_** (tiếng Nhật: 龍鳳, Long Phụng) là một tàu chiến của Hải quân Đế quốc Nhật Bản vốn khởi sự hoạt động như là tàu tiếp liệu tàu ngầm _Taigei_, và được rút khỏi
Tên tàu Nhật tuân theo các quy ước khác nhau từ những quy ước điển hình ở phương Tây. Tên tàu buôn thường chứa từ _maru_ ở cuối (nghĩa là _vòng tròn_), trong khi tàu
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
**Cuộc hành quân xâm lược vùng vịnh Lamon của Nhật Bản** (Tiếng Philippines: Paglusob ng mga Hapones sa Look ng Lamon) là nhiệm vụ thứ hai trong cuộc hành quân xâm lược vùng vịnh Lingayen
thumb|Quân xưởng Hải quân Sasebo (1920-1930) là một trong bốn nhà máy đóng tàu hải quân chính thuộc quyền sở hữu và điều hành bởi Hải quân Đế quốc Nhật Bản. ## Lịch sử phải|Quân
**Trận hải chiến Guadalcanal** hay theo như cách gọi của Nhật Bản là **Dai Sanji Solomon Kaisen** (第三次ソロモン海戦, だいさんじソロモンかいせん; _Hải chiến Solomon lần thứ ba_), diễn ra từ ngày 12 đến ngày 15 tháng 11
**Hải chiến ngoài khơi Samar** hay **Trận Samar** là trận đánh mang tính quan trọng trong thời gian diễn ra cuộc Hải chiến vịnh Leyte, một trong những trận hải chiến lớn nhất trong lịch
**USS _Sealion_ (SS/SSP/ASSP/APSS/LPSS-315)**, là một tàu ngầm lớp Balao của Hải quân Hoa Kỳ và là con tàu thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo loài sư tử biển. Con tàu
là cuộc tổng phản công của Hải quân Đế quốc Nhật Bản nhằm vào lực lượng Đồng Minh tại Okinawa. Đây cũng là trận đụng độ không quân - hải quân cuối cùng giữa hải
**Trận chiến Biển Bismarck** (2 tháng 3 năm 1943 - 4 tháng 3, 1943) là một trận đánh diễn ra tại Mặt trận Tây Nam Thái Bình Dương trong Chiến tranh thế giới thứ hai.