Tôn Tẫn (孫臏, 382 TCN - 316 TCN), người nước Tề, là một quân sư, một nhà chỉ huy quân sự nổi tiếng thời Chiến Quốc. Tương truyền, Tôn Tẫn là cháu của Tôn Tử, cùng với Bàng Quyên là học trò môn binh pháp của Quỷ Cốc Tử (ngoài Tẫn và Quyên, học trò Quỷ Cốc Tử Vương Hủ còn có Tô Tần và Trương Nghi học môn du thuyết). Tôn Tẫn binh pháp của ông là một trong các quyển binh pháp nổi tiếng ở Trung Quốc.
Tiểu sử
Bị hại
Trong sách Sử ký Tư Mã Thiên thiên Tôn Tử Ngô Khởi liệt truyện có ghi:
Bàng Quyên cùng học binh pháp với Tôn Tẫn. Sau khi học xong, Bàng Quyên vì ham công danh phú quý nên xin Quỷ Cốc tiên sinh xuống núi trước để tìm công danh, được làm quan nước Ngụy. Tuy nhiên ông tự cho rằng mình không giỏi bằng Tôn Tẫn, con cháu của vị tướng nổi tiếng Tôn Vũ. Để triệt hạ bạn học, Bàng Quyên cho người mời Tôn Tẫn đến nước Ngụy rồi vu tội cho khiến Tôn Tẫn bị chặt xương hai đầu gối và bị thích lên mặt để Tôn Tẫn phải giấu mình không thể ra làm tướng. Cái tên Tẫn (臏, hình phạt chặt xương đầu gối) của Tôn chính là xuất phát từ sự kiện này.
Sang nước Tề
thumb|Tranh vẽ Tôn Tẫn
Năm 366 TCN, biết tin sứ giả nước Tề đến đất Lương thuộc nước Ngụy, Tôn Tẫn lén tới thuyết phục sứ giả. Sứ giả nước Tề cho là kỳ lạ bèn mang trộm Tôn Tẫn lên xe về Tề. Tẫn trở thành thượng khách của tướng quốc Điền Kỵ. Tướng Tề là Điền Kỵ phục tài, tâu với Tề Uy Vương phong Tẫn làm thầy.
Trận Quế Lăng
Năm 353 TCN, Bàng Quyên được Ngụy Huệ vương giao chức đại tướng cầm quân đi đánh nước Triệu. Vua Triệu phải cầu cứu nước Tề.
Nghe theo kế "vây Ngụy cứu Triệu" (圍魏救趙) của Tôn Tẫn, Điền Kỵ thay vì cứu Triệu lại dẫn quân tức tốc tiến thẳng đến kinh đô Đại Lương của nước Ngụy, buộc Bàng Quyên phải bỏ việc tấn công Triệu để quay về cứu nước rồi bị quân Điền Kỵ đánh cho đại bại trong trận Quế Lăng. Sau khi bắt được Bàng Quyên, Tôn Tẫn vì nể tình bạn học xưa nên đã tha chết cho Bàng Quyên mà còn thả ông quay về nước Ngụy. Chương 1 cuốn Tôn Tẫn binh pháp, tác phẩm binh pháp của Tôn Tẫn được dành để nói về các sự kiện xoay quanh cuộc đối đầu giữa Tôn Tẫn và Bàng Quyên ở trận Quế Lăng.
Sử ký chỉ nhắc tới việc Điền Kỵ đánh bại Bàng Quyên ở Quế Lăng, không đề cập việc Bàng Quyên bị bắt trong trận này. Tiểu thuyết Đông Chu liệt quốc đã mô tả câu chuyện giữa Bàng Quyên và Tôn Tẫn trong hồi 88: "Tôn Tẫn giả điên thoát nạn, Bàng Quyên bại trận Quế Lăng".
Trận Mã Lăng
Tới năm 341 TCN, Ngụy vương một lần nữa sai Bàng Quyên đem quân đánh Tề. Để lừa Bàng Quyên đuổi theo quân Tề, Tôn Tẫn dùng kế rút bếp, theo đó cứ ngày hôm sau thì lại cho làm ít bếp ở doanh trại hơn so với ngày hôm trước, ngày đầu 10 vạn cái, ngày hôm sau còn 5 vạn cái và đến hôm sau nữa còn 3 vạn cái. Kế rút bếp khiến Bàng Quyên tưởng rằng quân Tề vì sợ hãi đã bỏ trốn quá nửa, vì vậy Bàng Quyên bỏ bộ binh, chỉ mang theo khinh binh thúc quân bất chấp mỏi mệt đuổi theo quân Tề ngày đêm.
thumb|Bản đồ trận Mã Lăng
Về phần mình, Tôn Tẫn trù tính trước sẽ đánh úp quân Ngụy ở đường Mã Lăng (馬陵, nay nằm ở Tây Nam huyện Phạm, Hà Nam), một con đường hẹp có hai bên vào hiểm trở, dễ mai phục, khó lui quân. Tôn Tẫn cho quân dùng cung tên mai phục cẩn thận ở Mã Lăng, lại cho sơn trắng cây trên đó có ghi chữ: "Bàng Quyên chết ở dưới cây này!". Quả nhiên Bàng Quyên cùng tinh binh bị lừa vào rọ lúc nửa đêm, đang lúc Bàng Quyên sai đốt lửa để đọc chữ thì Tôn Tẫn cho quân phục kích bắn tên tới tấp vào quân Ngụy, Bàng Quyên thấy thế cùng lực kiệt bèn tự đâm cổ chết, trước lúc chết còn than rằng:
Chiến thuật mai phục của Tôn Tẫn ở Mã Lăng có thể coi là ví dụ nổi tiếng nhất của câu nói "Dĩ lợi động chi, dĩ tốt đãi chi" (以利動之,以卒待之, dùng lợi mà dụ địch tiến, trọng binh mai phục quân thù) trong sách Binh pháp Tôn Tử.
Di sản
thumb|Bản sách bằng tre Tôn Tẫn binh pháp khai quật được ở núi Ngân Tước, [[Lâm Nghi, tỉnh Sơn Đông năm 1972]]
Sau khi giúp nước Tề (Nước Tề thời Chiến Quốc nay là tỉnh Sơn Đông), Tôn Tẫn sống ẩn dật. Ông có viết cuốn Binh pháp Tôn Tẫn, một trong những quyển binh pháp nổi tiếng của Trung Quốc.
Trong văn học
Hai kế Vây Ngụy cứu Triệu và rút bếp của Tôn Tẫn sau này cũng trở nên nổi tiếng, Gia Cát Lượng từng sử dụng một biến thể của kế rút bếp là kế thêm bếp để ngăn quân Tư Mã Ý đuổi theo.
Tiểu thuyết Đông Chu liệt quốc có câu chuyện về Tôn Tẫn từ hồi 87 đến hồi 89. Hồi 87 nói về thời gian hai người còn là học trò của Quỷ Cốc Tử mà Sử ký không đề cập. Chuyện Bàng Quyên - Tôn Tẫn mà Sử ký chép được tác giả Phùng Mộng Long đề cập tương tự từ hồi 88 tới hồi 89.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tôn Tẫn** (孫臏, 382 TCN - 316 TCN), người nước Tề, là một quân sư, một nhà chỉ huy quân sự nổi tiếng thời Chiến Quốc. Tương truyền, Tôn Tẫn là cháu của Tôn Tử,
**Tôn Tân** (chữ Hán: 孫新; bính âm: _Sūn Xīn_), ngoại hiệu **Tiểu Uất Trì** (chữ Hán: 小尉遲; tiếng Anh: Little Yuchi; tiếng Việt: _Tiểu Uất Trì Kính Đức_) là một nhân vật hư cấu trong
**Tôn Tẫn binh pháp** còn gọi là **Tề Tôn Tẫn binh pháp**, là một trong các quyển binh pháp nổi tiếng do Tôn Tẫn, một danh tướng nước Tề thời Chiến Quốc xưa viết. _Tôn
**Thư Cừ Mông Tốn** () (368–433) là một người cai trị của nước Bắc Lương thời Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung Quốc, và là vua đầu tiên của thị tộc Thư
**Trưởng Tôn Vô Kị** (chữ Hán: 長孫無忌; 594 - 659), biểu tự **Phù Cơ** (辅机), là đại công thần trong triều đại nhà Đường trải qua ba đời Hoàng đế nhà Đường, từ Đường Cao
**Tần Huệ Văn vương** (chữ Hán: 秦惠文王; 354 TCN - 311 TCN), là vị vua thứ 31 của nước Tần - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm
**Tấn Cảnh công** (chữ Hán: 晋景公, cai trị: 599 TCN – 581 TCN), tên thật là **Cơ Cứ** (姬据), là vị vua thứ 28 của nước Tấn - chư hầu nhà Chu trong lịch sử
**Tấn Lệ công** (chữ Hán: 晉厲公, cai trị: 580 TCN – 573 TCN), tên thật là **Cơ Thọ Mạn** (姬寿曼) hoặc **Cơ Châu Bồ** (姬州蒲), là vị vua thứ 29 của nước Tấn - chư
MÔ TẢ SẢN PHẨMKem Xả Pantene 3 Phút Chăm Sóc Tóc Hư Tổn Thương hiệu : Pantene Xuất xứ : Thái lan Kem Xả Pantene 3 Phút Chăm Sóc Tóc Hư Tổn là sản phẩm
**Tấn phi Phú Sát thị** (chữ Hán: 晉妃富察氏, ? - 19 tháng 1 năm 1823), là một phi tần của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. ## Cuộc đời Tấn phi Phú Sát thị xuất
Kem nám tàn nhang Nano white (15g)Dưỡng trắng - Chống nắng - Chống lão hóaThông tinThành phần- Ánh nắng, bụi bẩn và độ ẩm cao là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm tăng
Kem Nám Tàn Nhang Đồi Mồi VIP 8 (30g)Đẳng cấp námÁnh nắng, bụi bẩn và độ ẩm cao là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm tăng quá trình sản sinh melanin quá mức
Kem nám tàn nhang Nano white (15g)Dưỡng trắng - Chống nắng - Chống lão hóaThông tinThành phần- Ánh nắng, bụi bẩn và độ ẩm cao là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm tăng
Kem Nám Tàn Nhang Đồi Mồi VIP 8 (30g)Đẳng cấp námÁnh nắng, bụi bẩn và độ ẩm cao là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm tăng quá trình sản sinh melanin quá mức
Kem nám tàn nhang Nano white (15g)Dưỡng trắng - Chống nắng - Chống lão hóaThông tinThành phần- Ánh nắng, bụi bẩn và độ ẩm cao là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm tăng
**Thuần tần Đồng Giai thị** (chữ Hán: 淳嬪董佳氏, ? - 13 tháng 10 năm 1819), là một phi tần của Thanh Nhân Tông Gia Khánh Đế trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử ###
Xịt dưỡng tóc bưởi xanhGiúp kích thích mọc tóc nhanh gấp 2 – 3 lần.:pear:Giúp phục hồi tóc khô, xơ, gãy rụng và cải thiện tóc hư tổn tận gốc.:pear:Giúp tóc mềm mượt gấp 2
**Nhà Tấn** (, ; 266–420 theo dương lịch), là một trong Lục triều trong lịch sử, sau thời Tam Quốc và trước thời Nam Bắc triều ở Trung Quốc. Triều đại này do Tư Mã
**Cách mạng Tân Hợi** () còn được gọi là **Cách mạng Trung Quốc** hay **Cách mạng năm 1911** là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Trung Quốc do những người trí
**Binh pháp Tôn Tử và 36 mưu kế ( 孙子兵法与三十六计;** Bính âm: Sūnzi bīngfǎ yǔ sānshíliù jì) là một bộ phim truyền hình dã sử Trung Quốc được phát sóng năm 2000. Đặt bối cảnh
**Tân Cương** (; ; bính âm bưu chính: **Sinkiang**), tên chính thức là **Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương**, là một khu vực tự trị tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Năm
**Tôn Thất Thuyết** (chữ Hán: 尊室説; 1839 – 1913), biểu tự **Đàm Phu** (談夫), là quan phụ chính đại thần, nhiếp chính dưới triều Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc và Hàm Nghi của triều
**Văn Đức Thuận Thánh hoàng hậu** (chữ Hán: 文德順聖皇后, 15 tháng 3, 601 – 28 tháng 7, 636), thông thường được gọi là **Trưởng Tôn hoàng hậu** (長孫皇后), là Hoàng hậu duy nhất của Đường
**Hậu Đường Trang Tông** (), tên húy là **Lý Tồn Úc** (), tiểu danh **Á Tử** (亞子), là một nhân vật chính trị và quân sự trong thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc trong lịch
Bản bằng [[tre thời Càn Long.]] **_Tôn Tử binh pháp_** hay _Binh pháp Ngô Tôn Tử_ là sách chiến lược chiến thuật chữ Hán do Tôn Vũ soạn thảo vào năm 512 TCN thời Xuân
**Tấn Điệu công** (chữ Hán: 晋悼公, cai trị: 572 TCN – 558 TCN), họ **Cơ** (姬), tên thật là **Chu** (周) hay **Củ** (糾), còn được gọi là **Chu tử** (周子) hoặc **Tôn Chu** (孫周),
thumb|upright=1.1|Ảnh chụp một phòng tra tấn cũ ở [[Lữ Thuận Khẩu, Trung Quốc]] **Tra tấn** là hành vi có chủ ý gây chấn thương tâm lý hoặc thể xác nghiêm trọng cho một cá nhân
thumb|Hậu cung ở Trung Á **Phi tần** (chữ Hán: _妃嬪_, tiếng Anh: _Imperial consort_ / _Royal concubine_), **Thứ phi** (_次妃_), **Tần ngự** (_嬪御_) hoặc **Cung nhân** (_宮人_), là những tên gọi chung cho nàng hầu
**Các chiến dịch bắc phạt thời Đông Tấn** chỉ loạt trận chiến của nhà Đông Tấn ở phía nam phát động trong khoảng thời gian từ năm 317 đến 419 nhằm thu phục lại miền
**Tôn Tú** (chữ Hán: 孙秀, ? – 301 hoặc 302), tên tự là **Ngạn Tài**, người Phú Xuân, Ngô Quận , tông thất nhà Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ##
**Phạm Duy Tốn **(chữ Hán: 范維遜; 1883 –25 tháng 2 năm 1924) là nhà văn xã hội tiên phong của nền văn học mới Việt Nam hồi đầu thế kỷ 20. Trước khi trở thành
**Tôn Lập** (chữ Hán: 孫立; bính âm: _Sūn Lì_), ngoại hiệu **Bệnh Uất Trì** (chữ Hán: 病尉遲; tiếng Anh: Sick Yuchi; tiếng Việt: _Uất Trì trong lúc đau ốm_) là một nhân vật hư cấu
**Tôn Quyền** (; 5 tháng 7 năm 182– 21 tháng 5, 252), tự là **Trọng Mưu** (仲谋), thụy hiệu **Ngô Đại Đế** (吴大帝, tức là "Hoàng đế lớn của Ngô"), là người sáng lập của
**Khởi nghĩa Tôn Ân** (chữ Hán: 孙恩起义, Hán Việt: Tôn Ân khởi nghĩa) là cuộc nổi dậy của nhân dân Chiết Đông dưới sự lãnh đạo của đạo sĩ Thiên Sư đạo là Tôn Ân,
**Tấn An Đế** () (382–419), tên thật là **Tư Mã Đức Tông** (司馬德宗), là vị Hoàng đế thứ 10 của nhà Đông Tấn, và là Hoàng đế thứ 15 của Nhà Tấn trong lịch sử
Quốc giáo của nhà Thương () là một tôn giáo cổ đại của Trung Quốc, trong đó các tín đồ được đào tạo giao tiếp với nhiều vị thần, bao gồm tổ tiên và các
**Nhà Tần** (221 TCN - 206 TCN) là triều đại kế tục nhà Chu và trước nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Nhà Tần được đặt tên theo nước Tần - nước đã chiến
**Tấn Vũ Đế** (chữ Hán: 晉武帝; 236 – 16 tháng 5, 290), tên thật là **Tư Mã Viêm** (司馬炎), biểu tự **An Thế** (安世), là vị Hoàng đế đầu tiên của nhà Tấn trong lịch
**Tiền Tần** (350-394) là một nước trong thời kỳ Ngũ Hồ thập lục quốc vào cuối thời kỳ nhà Đông Tấn (265-420). Nước này do thủ lĩnh bộ tộc Đê là Bồ Hồng sáng lập
**Khu bảo tồn đất ngập nước Láng Sen**, với tổng diện tích 5.030 ha, được xem như một bồn trũng nội địa thuộc vùng trũng rộng lớn Đồng Tháp Mười, tỉnh Long An. Với hình
**Tôn giáo tại Hoa Kỳ** đặc trưng bởi sự đa dạng các niềm tin và thực hành tôn giáo. Theo các cuộc thăm dò ý kiến gần đây, 76% tổng số dân Hoa Kỳ nhận
**Tần Chiêu Tương vương** (chữ Hán: 秦昭襄王; 325 TCN – 251 TCN, trị vì: 306 TCN - 251 TCN) hay **Tần Chiêu vương** (秦昭王), là vị vua thứ 33 của nước Tần - chư hầu
Biểu trưng thường gặp của các tôn giáo Abraham: [[Ngôi sao David (ở trên cùng) của Do Thái giáo, Thánh giá (ở dưới bên trái) của Cơ Đốc giáo, và từ Allah được viết theo
**Phó vương quốc Tân Tây Ban Nha** ( ) là vùng lãnh thổ thiết yếu của Đế quốc Tây Ban Nha, được thành lập bởi nhà Habsburg Tây Ban Nha. Nó bao phủ một khu
**Tôn Thất Hiệp** còn có tên là **Tôn Thất Cáp** (尊室鉿, 01 tháng 01, 1809– 12 tháng 04, 1862), là một đại thần nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự
**Tấn Huệ Đế** (chữ Hán: 晋惠帝; 259 – 307), tên thật là **Tư Mã Trung** (司馬衷), là vua thứ hai của nhà Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Ông không có năng lực cai
**Chiến tranh Tôn giáo Pháp** là một chuỗi gồm tám cuộc tranh chấp giữa phe Công giáo và phe Huguenot (Kháng Cách Pháp) từ giữa thế kỷ 16 kéo dài đến năm 1598. Ngoài những
**_Tấn thư_** (chữ Hán phồn thể: 晋書; giản thể: 晋书) là một sách trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (_Nhị thập tứ sử_), do Phòng Huyền Linh và Lý Diên Thọ phụng mệnh Đường
**Công-tôn Diễn** (chữ Hán: 公孫衍, 360 TCN-300 TCN), còn gọi là Tê Thủ (犀首), là chính khách thời Chiến Quốc, thuộc học phái Tung hoành gia, là một trong những người cầm đầu đường lối
**Chiến tranh Tấn-Ngô 279-280** là cuộc chiến cuối cùng thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Vua Tây Tấn là Tư Mã Viêm phát động chiến tranh và nhanh chóng tiêu diệt nước Đông