✨Tôma Aquinô

Tôma Aquinô

Thomas Aquinas (tiếng Ý: Tommaso d'Aquino, tiếng Latinh và tiếng Anh: Thomas Aquinas) (1225-1274), cũng phiên âm là Tômát Đacanh từ tiếng Pháp Thomas d'Aquin, là một tu sỹ, linh mục dòng Đa Minh người Ý và là một nhà thần học và triết học có nhiều ảnh hưởng trong truyền thống chủ nghĩa kinh viện mà trong lĩnh vực này ông cũng được gọi là "Doctor Angelicus" và "Doctor Communis". Tôma sinh ra tại lâu đài của cha mình: lâu đài Roccasecea, thuộc lãnh thổ Napoli. Phần tên "Aquinas" của tên ông là từ tên của vùng đất Aquino, vốn thuộc về gia đình ông cho đến năm 1137.

Thomas là người đề xướng quan trọng nhất của thần học tự nhiên, và là cha đẻ của học thuyết Thomas. Ông có ảnh hưởng đáng kể trong tư tưởng phương Tây, và nhiều triết học hiện đại đã được hình thành trong quá trình phát triển hoặc phản đối ý tưởng của ông, đặc biệt là trong các lĩnh vực đạo đức, luật tự nhiên, siêu hình học, và lý luận chính trị. Không giống như nhiều trường phái trong Giáo hội thời gian đó, Thomas chấp nhận một số ý tưởng do Aristotle đưa ra - người mà ông gọi là "vị Triết gia" - và ông đã cố gắng kết hợp triết học Aristotle với các nguyên tắc của Kitô giáo. Các tác phẩm của ông được biết đến nhiều nhất là Summa Theologica (Tổng luận thần học) và Summa contra Gentiles (Tổng luận chống lại dân ngoại). Bình luận của ông về Kinh Thánh và Aristotle là một phần quan trọng trong các tác phẩm của ông. Hơn nữa, ông còn nổi bật với những bài thánh ca Thánh Thể của mình, chúng đã trở thành một phần của phụng vụ Giáo hội.

Tiểu sử

Cha ông là bá tước Landulf, một dòng tộc lâu đời ở phía nam nước Ý, mẹ ông là nữ bá tước Theodora của nhà Theate, một dòng dõi quý tộc Norman. Thuở thiếu thời ông theo học tại tu viện Monte Cassino, tiếp đến ông học ở đại học Naples, khi tốt nghiệp ông đi theo học các tu sĩ dòng thánh Dominic. Các trưởng tu sĩ dòng thánh Dominic nhanh chóng nhận thấy tài năng của Thomas nên liền gửi anh tới Köln, ở đây Thomas trở thành học trò giỏi nhất và sau này là đồng nghiệp của Albertus Magnus. Ông đi theo Albert đến Paris sau đó lại cũng theo Albert quay lại Köln và trở thành giáo sư. Sau này ông còn đi nhiều nơi như Naples, Paris, Rome và nhiều nơi khác ở Ý để giảng dạy và thuyết trình trước công chúng. Ông từng được nhiều vị hoàng mời tới để trao đổi thêm (Louis VIII, Charles,...) và cuối đời ông được phong Thánh.

Sự nghiệp

Tổng quát

Với nền tảng giáo dục như vậy, các tư tưởng và nghiên cứu của Thomas không khác gì của người thầy là Albert của mình. Thonas cũng rất hâm mộ Aristotle, Platon như người thầy của mình. Thomas bản chất vốn ít nghiên cứu, tìm tòi cái mới tuy nhiên ông lại cố gắng giải thích các điều căn bản của Aristotle và một số các nhà bác học khác sao cho đúng và giao thoa với Kinh Thánh, sao cho hợp ý Chúa. Chính xác hơn thì ông muốn sử dụng các kiến thức khoa học để phục vụ cho tôn giáo nhưng ông đã không thành công.

Nói chung, Thomas Aquinas là một trong những người đi sau kế thừa tư tưởng từ các bậc tiền bối nhiều nhất. Suy nghĩ lại những gì mà Aristotle để lại, chấp nhận tư tưởng của chủ nghĩa khắc kỷ, đồng quan điểm với chủ nghĩa Platon mới, Augustin thành Hippo, Boethius và dung hợp các quan điểm của Cicero, Averroes,..., đó là những gì mà Thomas đã làm.

Đức tin và lý trí

Tuy kế thừa từ những con người xuất sắc như vậy, Thomas Aquinas lại cho thấy suy nghĩ riêng của bản thân. Đối với ngài Thomas, triết học và thần học không phải là một, chúng theo đuổi những đối tượng khác nhau. Tuy nhiên, các đối tượng này lại không có sự đối lập nào với nhau. Nếu đối tượng của triết học là nghiên cứu những chân lý của lý trí thì đối tượng của thần học là chân lý của lòng tin tôn giáo.

Từ lập trường mang tính chất dung hòa trên, Thomas đã cho rằng Thiên Chúa là khách thể cuối cùng của triết học và thần học, là nguồn gốc nền tảng của mọi chân lý.

Vì vậy, về nguyên tắc, không có sự mâu thuẫn nào giữa thần học và triết học, giữa đức tin và lý tính. Thomas còn viếtː

Ấy thế nhưng, Thomas Aquinas lại đánh giá triết học thấp hơn thần học. Triết học thấp hơn thần học giống như là lý tính của người không thể nào bằng trí tuệ của Thượng đế. Vì vậy, "để giải thoát, con người phải biết chạy trốn khỏi lý tính của mình thông qua sự mặc khải của Chúa".

Theo Thomas, mọi nhận thức đều đến từ cảm giác. Nhưng các đối tượng như Thương đế, thần linh, linh hồn lại là các đối tượng đặc biệt, đây là các đối tượng siêu nhiên, siêu cảm giác. Vì vậy, chỉ cảm giác thôi là chưa đủ. Chính vì thế, cảm giác phải được bổ sung bằng đức tin.

Nếu mâu thuẫn giữa đức tin và lý tính xuất hiện thì, theo Thomas, có dấu hiệu để một trong hai cái đã sai. Sai lầm đó sẽ thuộc về lý tính, bởi không có sai lầm nào trong sự mặc khải của Chúa.

So với các bậc tiền bối như Augustin thành Hippo, Anselm thành Canterbury hay Pierre Abélard, Thomas đã có sự phân định rõ ràng hơn giữa hai mặt lý trí và đức tin. Đồng thời, ông thể hiện rõ tính nhất nguyên của mình trong vấn đề này khi ông bác bỏ quan niệm "chân lý hai mặt" tồn tại và ông cho rằng người ta có thể dùng ly trí để làm sáng tỏ tính hợp lý của các định đề không thể chứng minh mà phải chấp nhận như những định đề tín ngưỡng. Thomas bày tỏ rằng cái làm nên giá trị của triết học không phải là tính cách của Cơ Đốc giáo mà là tính hợp lý. Sách Triết học Trung cổ châu Âu đã viết như thế này về Thomasː

Giải thích Thiên Chúa

Trước Thomas Aquinas, nhiều người cố chứng minh sự hiện hữu của Thượng đế theo chiều từ nguyên nhân đến kết quả. Đó là những nhà triết học theo cái gọi là thần học bản chất, khẳng định Thiên Chúa là một hữu thể tối cao, là đấng sáng tạo hoàn hảo, là một hiển nhiên tuyệt đối không cần phải chứng minh. Ông viết như sauː

Thiên Chúa đã được đánh giá đúng bản chất của mình. Đó là một hữu thể không thể tranh cãi và không cần giải thích. Nếu ai đó cố làm vậy với trí tuệ nhỏ bé của bản thân (tức chấp nhận rằng con người do Chúa sáng tạo ra) thì đó là điều không thể chấp nhận được.

Còn khi triết học có Thomas, mọi thứ đã bị đảo ngược lại. Étienne Gilson cho biết các luận chứng của Thomas Aquinas về Thiên Chúa là Thiên Chúa hiện hữu, rất khác so với những tiền bối của ông. Đây là cách giải thích Thiên chúa là hữu thể sáng tạo ra vạn vật (có cả con người). Cụ thể, sự hiện hữu của Thiên Chúa được chứng mình bằng năm con đường là đi tìmː

  • Nguồn gốc đầu tiên của vận độngː Mọi chuyển động cần phải có động lực ban đầu nhưng cái đóng vai trò động lực, lực đẩy thì không nhất thiết phải ở trong chuyển động. Vì vậy, phải có một hữu thể là động lực của mọi vận động nhưng hữu thể đó không ở trong vận động.

  • Nguyên nhân đầu tiênː Các nguyên nhân tác động trong thế giới không thể là vô cùng để mãi mãi đi từ nguyên nhân này đến nguyên nhân khác. Vì vậy, "nếu không có một nguyên nhân tác động làm giới hạn tuyệt đối cho chuỗi nguyên nhân tác động thì không thể có giới hạn cuối cùng hay giới hạn trung gian được". Nguyên nhân đầu tiên thông qua nguyên nhân trung gian hoặc qua nhiều hơn một nguyên nhân trung gian để nối liến với nguyên nhân cuối cùng. Bởi vậy, nguyên nhân đầu tiên và nguyên nhân cuối cùng thực chất là một. Vì vậy, nếu xóa bỏ nguyên nhân đầu tiên thì cũng có nghĩa là xóa bỏ nguyên nhân cuối cùng. Và nếu không xác định được giới hạn đầu tiên cho các nguyên nhân tác động thì cũng chẳng có nguyên nhân trung gian nào cả. Nếu điều đó xảy ra thì chỉ là một thế giới chết, bất động mà thực tế thì thế giới sinh sôi nảy nở không ngừng. Vì thế, không thể không có nguyên nhân đầu tiên và nguyên nhân đó chính là Thiên Chúa.

  • Tính tất yếu đầu tiênː Các sự vật ở trạng thái ngẫu nhiên, vì thế "phải công nhận một hữu thể tự nó tất yếu, không phải và không cần có nguyên nhân cho sự tất yếu của nó ở bên ngoài bản thân nó. Tuy nhiên, nó lại là nguyên nhân tất yếu cho những cái khác. Hữu thể ấy mọi người gọi là Thiên Chúa.

  • Thang bậc hoàn hảo nhấtː Các sự vật trong thế giới hiện hữuu trong các mức độ hoàn thiện khác nhau, nên "phải có một cái gì tuyệt đối thiện, tuyệt đối thực, tuyệt đối đẹp và có giá tri, vượt trên tất cả, và do đó, hữu thể một cách tuyệt đối. Vì vậy, phải có một hữu thể làm nguyên nhân cho hữu thể cái thiện hoàn hảo và mọi cái hoàn hảo khác cho tất cả mọi sự vật; hữu thể đó chúng ta gọi là Thiên Chúa."

  • Mục đích tối caoː Tính chất hợp lý của giới tự nhiên không thể giải thích bằng những nguyên nhân tự nhiên. Vì vậy, cần tồn tại một thực thể siêu lý trí tự nhiên điềuu chính thế giới.

Nhiều học giả thế hệ sau cho rằng tính đồng kết của năm con đường chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa của Thomas Aquinas đều được xây dựng trên một nền tảng hiện sinh, trên cơ sở áp dụng tính tất yếu của mối liên hệ nhân quả. Trong đó, kết quả được xem là chứng ly đối chất để khẳng định sự hiện hữu của Chúa. Còn có thể có những nhận định, đánh giá khác nhau về cách chứng minh của ông, nhưng có lẽ dễ chấp nhận hơn cả là ý kiến của Gilson ("phải khởi đầu từ một hiện hữu, vì chỉ cần chấp nhận bất cứ một nguyên do nào hợp lý trong đời sống thường nhật thì cũng đủ chứng minh cho sự hiện hữu của Thiên Chúa").

Quan điểm về vũ trụ

Nói chung, Thomas Aquinas kế thừa suy nghĩ của các nhà triết học của chủ nghĩa kinh viện. Ông cho rằng hệ thống địa tâm của Ptolemey có giá trị như các giáo điều của tôn giáo. Ông ủng hộ quan điểm trung tâm của vũ trụ là Trái Đất bất động. Mặt Trời, Mặt Trăng và 5 hành tinh gắn với những hình cầu do các tinh thần đặc biệt trấn giữ, làm xung lực để quay quanh Trái Đất. Giới hạn cuối cùng của Trái Đất là hình cầu thứ tám. Bước ra khỏi nó là nơi của Chúa trời. Con người sống ở trung tâm của vũ trụ. Mọi cái sinh ra đã hàm chứa ngay mục đích từ đầu. "Cuộc sống của sư tử không thể thiếu sự tàn bạo của bạo chúa", những thiên tai như động đất, lụt lội, bão tố, mưa đá là Chúa trời gây ra để trừng phạt con người. Nhưng trời không thể nào chừng trị con người vô tội và người gián tiếp vào thế phải chấp nhận để được sinh tồn. Những hậu quả trên phải có nguyên nhân tác động đến vũ trụ

Ý kiến về cái chung

Thomas Aquinas đã đứng trên lập trường chủ nghĩa duy thực ôn hòa để giải quyết cái chung. Theo ông, cái chung tồn tại tên ba mặtː

  • Là mẫu mực lý tưởng của các sự vật cụ thể, có trước các sự vật cụ thể và tồn tại ở trong trí tuệ của Thượng đế.
  • Là bản chất hiện hữu của các sự vật cụ thể.
  • Là sự trừu tượng hóa các sự vật cụ thể.

    Nhận thức luận

    Thomas Aquinas đã tiếp thu quan niệm hình dạng của Aristotle. Theo ông, mọi nhận thức đều diễn ra trong chủ thể nhờ tiếp thu sự tác động từ hình ảnh của khách thể. Nhưng đó là sự tiếp nhận có chọn lọc. Chủ thể chỉ tiếp nhận ở khách thể những cái gì giống với chủ thể (hình ảnh về sự vật) chứ không phải mọi tồn tại về khách thể, là bản thân sự vật vì cái gia nhập vào tinh thần của chủ thể không thể là bản thân khách thể mà phải là cái đã mất đi tính vật chất, hiển hiện lên trong một hình dạng của nó. Bởi nguyên tắc tinh thần chỉ được tiếp nhận được những cái thuộc về tinh thần.

Hình dạng được Thomas Aquinas phân thành hai hình dạngː

  • Hình dạng cảm tínhː Đây là hình dạng có trật tự ở bậc thấp. Nó chỉ bao bao quát sự vật với những tính chất ngẫu nhiên, bề ngoài như hình dáng, màu sắc, mùi vị, nhưng nhờ nó mà cái cảm giác trở nên cái cảm thụ tích cực.
  • Hình dạng lý tínhː Đây là hình dạng có trật tự ở bậc cao. Thông qua hình dạng lý tính, con người tiếp nhận được những cái chung, cái giống với đối tượng, cái mà trong đó chứa đựng nhiều thực thể riêng biệt để xâm nhập vào bản chất của nó.

Là con trai của một nhà thần học nổi tiếng, tuy vậy tư tưởng của Thomas trong vấn đề này trở thành bước tiến lớn của triết học kinh viện. Ông quan tâm rất nhiềuu những gì Aristotle để lại mà dửng dưng trước di sản của Platon. Thế nhưng, Thomas cũng để lại khá nhiều yếu tố tiêu cực như nặng về logic hình thức, lập luận sáo rỗng, xa rời nghiên cứu có tính chất kinh nghiệm.

Lý thuyết về xã hội

Thomas Aquinas tán dương sự thống trị của nhà thờ với nhân dân. Đối với ông, cuộc sống dưới trần gian chỉ là sự chờ đợi và chuẩn bị cho cuộc sống tốt đẹp hơn ở thế giới bên kia. Vì vậy, nhiệm vụ của vương quốc trần thế là thực hiện yêu cầu chính quyền tối cao là nhà thờ và trừng phạt không thương tiếc những kẻ tà giáo.

Ảnh hưởng

Vào ngày 4 tháng 8 năm 1879, trong thông điệp Oeterni Patris, Giáo hoàng Leo XIII tuyên bố học thuyết của Thomas Aquinas là bắt buộc với mọi giáo hội Cơ Đốc giáo với tư cách "triết học duy nhất chân chính của Cơ Đốc giáo". Còn trong Giáo luật sửa đổi năm 1918, ở khoản 589 có quy định các chủng sinh phải học ít nhất hai năm triết học và bốn năm thần học theo lý thuyết của ngài Thomas mới trở thành được Linh mục. Khoản 1336 yêu cầu các giáo viên chủng viện phải lấy phương pháp và nguyên tắc của ông làm chuẩn.

Tác phẩm

Tác phẩm lớn nhất của Tôma là cuốn Summa, cuốn sách ông viết từ năm 23 tuổi cho tới lúc chết tuy mới chỉ đến phần III. Cuốn sách đã thể hiện vô cùng rõ quan điểm của Tôma, ông cho rằng mọi hiện tượng tự nhiên, theo ý Chúa, đều có giá trị riêng của nó. Ông đã cố gắng giải thích vì sao hiện tượng lại xảy ra như thế theo kiểu vì Chúa muốn như thế. Ví dụ như ông cho rằng sự giống nhau giữa các loài là bởi vì chúng được tạo ra gần nhau, Chúa đã lấy hình mẫu của con trước để tạo thành con sau.

Dưới đây là danh sách các tác phẩm của Thomasː

  • Hệ thống tư tưởng của Thomas trở nên sinh động hơn gần gũi hơn với hiện thực. Mặc dù Vladimir Ilyich Lenin cho đó là tư tưởng kinh viện, đã giết chết sự sáng tạo của Aristotle cũng như làm bất tử hóa những cái đã chết, ông cũng đánh giá cao sự kế thừa này của Thomas bởi Aristotle đã phê phán chính người thầy của mình là Platon khi triết học của ông thấy mang tính chất bất khả tri.
  • Quá dựa vào những ý kiến của Aristotle, Thomas đã không cho phép mình một sự sáng tạo thực sự. Bởi Thomas cũng như nhiều người trước đó và đương thời đều coi Aristotle là mặt trời của tri thức. Bertrand Russell đã viết về thực tế này như sauː

Danh ngôn

Sách tham khảo

thumb|Super Physicam Aristotelis, 1595

  • .
  • ;Ghi nhận

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tôma Aquinô Vũ Đình Hiệu** (sinh 1954) là một Giám mục Công giáo Việt Nam. Ông là Giám mục chính tòa Giáo phận Bùi Chu, Chủ tịch Ủy ban Bác ái xã hội – Caritas
**Thomas Aquinas** (tiếng Ý: **Tommaso d'Aquino**, tiếng Latinh và tiếng Anh: **Thomas Aquinas**) (1225-1274), cũng phiên âm là **_Tômát Đacanh_** từ tiếng Pháp **Thomas d'Aquin**, là một tu sỹ, linh mục dòng Đa Minh người
là một Hồng y người Nhật Bản của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông hiện là Tổng giám mục chính tòa Tổng giáo phận Osaka và Phó chủ tịch Hội đồng Giám mục Nhật Bản.
**Tôma Nguyễn Văn Trâm** (sinh ngày 9 tháng 1 năm 1942) là một giám mục người Việt, từng giữ chức giám mục phụ tá của Giáo phận Xuân Lộc (1992–2005), giám mục chính tòa tiên
Trong tiếng Việt, **Thánh Tôma** là cách phiên âm và có thể chỉ đến các nhân vật sau: *Tôma Tông đồ *Tommaso d'Aquino *Thomas More Thể loại:Thánh Công giáo Rôma Thể loại:Mười hai Sứ đồ
**Giuse Hoàng Văn Tiệm** (1936–2013) là một Giám mục của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam. Ông nguyên là Giám mục chính tòa của Giáo phận Bùi Chu. Khẩu hiệu Giám mục của ông
**Robert Emmet Barron** (sinh ngày 19 tháng 11 năm 1959) là một giám mục của Giáo hội Công giáo, giữ chức vụ Giám mục Chính tòa Winona–Rochester từ tháng 6 năm 2022 đến nay. Ông
**Đa Minh Nguyễn Chu Trinh** (sinh ngày 20 tháng 3 năm 1940) là một giám mục Công giáo người Việt Nam. Ông nguyên là giám mục chính tòa của Giáo phận Xuân Lộc, đảm trách
**Gioan Đỗ Văn Ngân** (sinh ngày 7 tháng 6 năm 1953) là một giám mục Công giáo người Việt Nam. Ông hiện giữ chức giám mục chính tòa Giáo phận Xuân Lộc và Chủ tịch
thumb|phải|Huy hiệu Giám mục Tôma Aquinô Vũ Đình Hiệu **Giáo phận Bùi Chu** (tiếng Latinh: _Dioecesis Buichuensis_) là một giáo phận Công giáo Rôma tại Việt Nam. Giáo phận có nhiều xứ đạo lâu đời
**Augustinô thành Hippo** (tiếng Latinh: _Aurelius Augustinus Hipponensis_; tiếng Hy Lạp: Αὐγουστῖνος Ἱππῶνος, _Augoustinos Hippōnos_; 13 tháng 11, 354 - 28 tháng 8, 430), còn gọi là **Thánh Augustinô** hay **Thánh Âu Tinh**, là một
nhỏ|_[[Bảy Mối Tội Đầu và Tứ Chung_, tranh của Hieronymus Bosch]] nhỏ|_Chúa Thánh Thần và Bảy Mối Tội Đầu_, bức vẽ trong một trang bản thảo W.171 tại [[Bảo tàng Mỹ thuật Walters (thế kỷ
**Giuse Đinh Đức Đạo** (sinh 1945) là một giám mục Công giáo người Việt, ông từng đảm nhiệm chức vụ giám mục chính tòa Giáo phận Xuân Lộc (2016–2021). Trước đó, ông từng là giám
**Giuse Nguyễn Tấn Tước** (sinh 1958) là một Giám mục Giáo hội Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông hiện là Giám mục chính tòa Giáo phận Phú Cường, và Chủ tịch Ủy ban Truyền
nhỏ|phải|Tranh khắc về một kẻ tham ăn [[bụng phệ]] **Tham ăn** **tục uống** (_Gluttony_) có nghĩa là quá nuông chiều bản thân và ăn uống quá mức bất cứ thứ gì đến mức lãng phí.
**Đa Minh Nguyễn Tuấn Anh** (sinh ngày 9 tháng 4 năm 1972) là một Giám mục Công giáo Việt Nam, hiện đang đảm nhận chức vụ Giám mục Phụ tá của Giáo phận Xuân Lộc.
nhỏ|267x267px| Tượng Prudentia, ở một góc mộ phần [[Louis XII của Pháp|Vua Louis XII tại Vương cung thánh đường Thánh Denis ở Paris]] **Sự khôn ngoan** hay **sự thận trọng** (, ) là khả năng
Giáo hoàng Học viện Thánh Piô X Đà Lạt, ngày nay là trụ sở của Trung tâm Đào tạo của Viện Hạt nhân và Trung tâm Văn hóa Thanh Thiếu Niên tỉnh Lâm Đồng. **Giáo
**Đa Minh Mai Thanh Lương** (tiếng Anh: **Dominic Luong**, **Dominic Dinh Mai Luong**) (20 tháng 12 năm 1940 – 6 tháng 12 năm 2017) là một giám mục Công giáo Rôma người Mỹ gốc Việt.
**Lịch Chung Rôma** (hay còn gọi **Lịch La Mã Tổng quát**) là lịch phụng vụ cho biết ngày cử hành các thánh và các mầu nhiệm của Chúa Giêsu Kitô trong Nghi lễ Rôma của
Trong những luận triết đầu tiên của tâm lý học và siêu hình học, **_conatus_** (; trong tiếng Latin có nghĩa là _nỗ lực_, _cố gắng_, _thúc đẩy_, _thiên hướng_, _quyết tâm_, _phấn đấu_) là
**Thánh Đa Minh** , còn gọi là **thánh Đôminicô** (; ; 8 tháng 8 năm 1170 - 6 tháng 8 năm 1221), là một linh mục Công giáo người Tây Ban Nha và là người
**Giuse Vũ Văn Thiên** (sinh ngày 26 tháng 10 năm 1960) là một giám mục Công giáo người Việt. Ông hiện là tổng giám mục của Tổng giáo phận Hà Nội và Phó Chủ tịch
nhỏ|200x200px|Cây sự sống trên thiên đường - Hình minh họa thế kỷ 15 **Cây sự sống** (tiếng Hebrew: עֵץ הַחַיִּים - _Ec ha-Chajim_) là cây trong vườn địa đàng theo Kinh Thánh, sinh trái ăn
Danh hiệu **Tiến sĩ Hội Thánh** (tiếng Latinh từ chữ _docere_, giảng dạy) trong Giáo hội Công giáo dành cho các vị Thánh mà các bài viết được toàn thể Giáo hội công nhận là
thumb|upright=1.5|_Thánh Giá Mathilde_, cây thánh giá nạm ngọc của Mathilde, Tu viện trưởng Essen (973-1011), bộc lộ nhiều đặc trưng trong nghệ thuật tạo hình Trung Cổ. **Thời kỳ Trung Cổ** (; hay còn gọi
nhỏ|265x265px|Bức tượng _[[Người suy tư_, Auguste Rodin|thế=]] Thuật ngữ "**Triết học phương Tây**" muốn đề cập đến các tư tưởng và những tác phẩm triết học của thế giới phương Tây. Về mặt lịch sử,
**Nhà thờ chính tòa Bùi Chu** tọa lạc tại xã Xuân Trường, tỉnh Ninh Bình là nhà thờ chính tòa của Giáo phận Bùi Chu. Giáo xứ Bùi Chu, chính thức thành lập năm 1670,
_Kẻ bạc gian_ (Le Tricheur à l'as de carreau), họa phẩm của [[Georges de La Tour trưng bày bảo tàng Louvre, Paris]] �7 người đang chơi poker với một người phát bài **Đánh bạc** (hay
**Thánh ca** là một thể loại ca khúc tôn giáo được sáng tác cho mục đích tôn vinh, chúc tụng (do đó còn gọi là **tán ca** hay **tụng ca**) hay nguyện cầu hướng về
**Luận cứ mục đích** hay **luận cứ thiết kế** (_teleological argument_) là một luận cứ cho sự tồn tại của Chúa trời hoặc của một đấng sáng tạo, dựa trên các bằng chứng tri giác
**Lêô XII** (Latinh: **Leo XII**) là vị giáo hoàng thứ 252 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1860 thì ông đắc cử Giáo hoàng vào ngày 28 tháng 9 năm
**Vinh Sơn Nguyễn Mạnh Hiếu** (tên tiếng Anh thông dụng: **Vincent Nguyen**; sinh 1966) là một Giám mục Công giáo người Việt, hiện giữ chức Giám mục phụ tá Tổng giáo phận Toronto, Canada. Ông
**Phaolô Nguyễn Thái Hợp** (sinh ngày 2 tháng 2 1945) là một giám mục Công giáo tại Việt Nam. Ông từng đảm trách vai trò giám mục chính tòa tiên khởi của Giáo phận Hà
"**Tantum ergo**" là những từ đầu tiên của hai câu cuối cùng trong bài ca _Pange lingua_ do thánh Tôma Aquinô sáng tác vào khoảng năm 1264. Các phân đoạn với những từ đầu là
**Cosma Hoàng Văn Đạt** (sinh 1947) là một Giám mục Công giáo người Việt Nam. Khẩu hiệu Giám mục của ông là _"Tình thương và sự sống"_. Ông từng đảm trách vai trò Giám mục
**Sviatoslav Shevchuk** (tiếng Ukraina: Святослав Шевчук; sinh 1970) là một Đại Tổng giám mục người Ukraina của Giáo hội Công giáo Ukraina (UGCC), trực thuộc Giáo hội Công giáo Rôma. Ông được chọn vào vị
nhỏ|Tượng _Đức Mẹ Sao Biển_ trong nhà thờ [[Sliema, Malta]] **Đức Mẹ Sao Biển** là một tước hiệu cổ xưa dành cho bà Maria, mẹ của Chúa Giêsu. Từ "Sao Biển" xuất phát từ phiên
Trang sơ lược này cung cấp thông tin khái quát về Giáo hội Công giáo – hệ phái có lượng tín đồ lớn nhất trong Kitô giáo. Người đọc có thể dùng trang này như
nhỏ|Theo truyền thống, người Công giáo ăn cá và một số loài [[hải sản vào ngày thứ Sáu hàng tuần vì luật kiêng thịt buộc không được ăn thịt của loài có vú và loài
**Girolamo Maiorica** (; , _Mai Ô Lý Ca_; 1591–1656) là một nhà truyền giáo Dòng Tên người Ý sang Việt Nam vào thế kỷ 17. Ông được biết đến là người chủ trương và thực
nhỏ|phải|Họa phẩm Sự bác ái của danh họa [[William Adolphe Bouguereau (1825-1905)]] **Bác ái** (tiếng Latinh: **caritas**, nghĩa là "tình yêu cao cả, rộng khắp", đôi khi cũng được gọi là **đức mến**), theo thần
Việc gọi tên **_Triết học phục hưng_** được sử dụng bởi các học giả để mô tả các tư tưởng của giai đoạn ở châu Âu khoảng giữa năm 1355 và 1650 (ngày nay dịch
**Viện Đại học hệ Nghiên cứu Napoli "Federico II"** (tiếng Ý: **Università degli Studi di Napoli "Federico II"**) còn được gọi là **Đại học Napoli** (tiếng Ý: **Università di Napoli**, tiếng Anh: **University of Naples**)
nhỏ|Các tín đồ Triết học Kitô giáo|255x255px **Triết học Kitô giáo** là một sự phát triển của một hệ thống triết học đặc trưng của truyền thống Kitô giáo. ## Triết học Hy Lạp và
() từng là một giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma ở Nhật Bản. Địa giới của Giáo phận bao gồm 4 tỉnh thuộc vùng Shikoku. Nhà thờ chính tòa Đức Mẹ lên trời,
() là một giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma ở Nhật Bản. Địa giới của Giáo phận bao gồm 5 tỉnh thuộc vùng Chūgoku. Nhà thờ chính tòa Đức Mẹ lên trời, còn
**Tài sản sở hữu** hay **sản nghiệp** trong bản trích yếu là những gì thuộc về hoặc với một cái gì đó dù là một thuộc tính hoặc là một thành phần của điều được
nhỏ|phải|Họa phẩm về con chiên tế lễ Lễ **Hiến sinh Vượt qua** (tiếng Anh: _Passover sacrifice_; tiếng Hebrew: קרבן פסח/_Korban Pesakh_) hay còn gọi là **Con chiên Vượt qua** hay **con chiên hiến tế** (_Passover
nhỏ| [[Tôma Aquinô|Thomas Aquinas ( -1274)]] **Thomism** là trường phái triết học phát sinh như một di sản của công việc và tư tưởng của Thomas Aquinas (1225-1274), triết gia, nhà thần học và tiến