Tiếng Illyria là một ngôn ngữ hay một nhóm các ngôn ngữ Ấn-Âu nói bởi người Illyria sống ở Đông Nam Âu thời kỳ cổ đại. Ngoại trừ một số tên người và địa danh, ngôn ngữ này không có văn liệu chứng thực nào còn sót lại, tuy nhiên lượng thông tin ít ỏi đó là đủ để kết luận rằng ngôn ngữ này thuộc ngữ hệ Ấn-Âu.
Trong các văn liệu cổ, thuật ngữ "người Illyria" được dùng để gọi nhiều bộ lạc khác nhau sống trên một phạm vi rộng lớn ở Đông Nam Âu, bao gồm Ardiaei, Autariatae, Delmatae, Dassareti, Enchelei, Labeatae, Pannonii, Parthini và Taulantii. Mức độ đồng nhất về mặt ngôn ngữ giữa các bộ lạc này vẫn còn là vấn đề còn chưa được làm rõ, tuy nhiên nghiên cứu eponym cho thấy sự tồn tại của một vùng ngôn ngữ ở phía nam khu vực này, khoảng Albania và Montenegro ngày nay, nơi đây có thể đã từng có dân số nói tiếng Illyria.
Hiểu biết về mối liên hệ giữa tiếng Illyria và các ngôn ngữ láng giềng vẫn còn rất hạn chế, do đó, tiếng Illyria thường được xếp vào một nhánh riêng trong ngữ hệ Ấn-Âu. Có ý kiến đề xuất mối liên hệ giữa tiếng Illyria và tiếng Messapi từng được nói ở miền Nam Ý, tuy nhiên không có bằng chứng xác thực; liên hệ với tiếng Veneti và tiếng Liburni cũng là vấn đề từng được thảo luận nhưng nay đã bị hầu hết các học giả bác bỏ. Một quan điểm phổ biến là tiếng Albania là hậu duệ hiện đại còn sót lại của tiếng Illyria, tuy nhiên đây cũng mới chỉ là giả thuyết.
Từ khoảng thời kỳ cận đại cho đến thế kỷ 19, thuật ngữ "tiếng Illyria" cũng được dùng để chỉ ngôn ngữ Slav Nam được nói ở vùng Dalmatia mà ngày nay được gọi là tiếng Serbia-Croatia, nhưng ngôn ngữ này chỉ là họ hàng xa với tiếng Illyria cổ thông qua tổ tiên chung là tiếng Ấn-Âu nguyên thủy. Trên thực tế, trừ khi tiếng Illyria là tổ tiên thật sự của tiếng Albania, giữa tiếng Illyria và tiếng Serbia-Croatia không hề có tiếp xúc với nhau bởi tiếng Illyria đã tuyệt chủng trước khi người Slav di cư tới bán đảo Balkan.
Phân loại
nhỏ|Các bộ lạc Illyria ở Đông Nam Âu
Tiếng Illyria thuộc là một phần của ngữ hệ Ấn-Âu. Có rất ít thông tin về mối liên hệ giữa nó và các ngôn ngữ Ấn-Âu khác. Ngày nay, nguồn thông tin chủ yếu về ngôn ngữ Illyria đến từ các từ trong tiếng Illyria được nhắc đến trong văn liệu thời kỳ cổ đại, cùng với một số tên người, tên dân tộc, tên địa lí và tên vùng nước trong tiếng Illyria. Bởi sự khan hiếm bằng chứng này, rất khó xác định được cách các âm vị đã biến đổi trong tiếng Illyria; quan điểm phổ biến nhất ngày nay là các phụ âm hữu thanh bật hơi /bʰ/, /dʰ/, /ɡʰ/ trong tiếng Ấn-Âu nguyên thủy đã trở thành các phụ âm hữu thanh /b/, /d/, /ɡ/.
Tiếng Messapi là một ngôn ngữ thời đại đồ sắt nói ở Puglia bởi những người Iapygi (bao gồm người Messapi, Peuceti và Dauni), định cư ở bán đảo Ý sau khi di cư từ Illyria tới trong giai đoạn chuyển tiếp giữa thời đại đồ đồng và đồ sắt. Vì vậy, tiếng Messapi, với tư cách là một ngôn ngữ riêng biệt, được xếp vào cùng nhóm ngôn ngữ Cổ Balkan giống tiếng Illyria. Eric Hamp xếp các tiếng này vào một nhóm mang tên "tiếng Messapi-Illyria", và nhóm này lại cùng với tiếng Albania là một phần của nhóm "tiếng Ấn-Âu Adriatic" lớn hơn. Các hệ thống phân chia khác nhóm ba ngôn ngữ này vào các nhóm như "Tiếng Illyria Chung" và "Tiếng Cổ Balkan Tây".
Trong các nghiên cứu cũ hơn, các học thuyết theo trường phái Toàn Illyria xếp các ngôn ngữ Histri, Veneti và Liburni vào nhóm phương ngữ tiếng Illyria. Tuy nhiên, các bằng chứng khảo cổ và tên riêng mới phát hiện bổ sung đã làm rõ rằng các ngôn ngữ này không phải là phương ngữ và cũng không cùng nhánh với tiếng Illyria. Mối liên quan giữa tiếng Veneti và tiếng Illyria về sau đã bị bác bỏ, và hai ngôn ngữ này ngày nay không được coi là liên hệ gần gũi với nhau nữa. Các học giả ủng hộ xếp tiếng Illyria vào nhóm satem thì dựa trên những tên người và tên địa lý như Asamum, Birzinimum, Zanatis, vân vân; các học giả này chỉ ra rằng những tên này có nguồn gốc Ấn-Âu nguyên thủy nhưng đã mang những đặc trưng của quá trình satem hóa. Ví dụ, Osseriates phái sinh từ /*h₁éǵʰeros/ (hồ), Thêm nữa, Acrabanus là một tên ghép liên quan tới /akros/ trong tiếng Hy Lạp cổ đại, còn Clausal liên quan tới /klew/ (rửa), cả hai đều không cho thấy dấu tích của quá trình vòm hóa. Tên riêng Gentius hay Genthius cũng không thể dùng được để phân định centum-satem bởi có hai dạng trong tiếng Illyria của nó, đó là Genthius và Zanatis. Nếu Gentius hay Genthius phái sinh từ _ǵen-_ ("được sinh ra") thì đây chính là bằng chứng khẳng định phân loại centum, nhưng nếu như Zanatis mới là từ phái sinh từ gốc đó (hoặc từ gốc *ǵen- ("biết")) thì tiếng Illyria lại là một ngôn ngữ satem.
Dựa trên những bằng chứng đã có và cân nhắc tới sự thiếu hụt văn liệu tiếng Illyria còn sót lại, có thể kết luận rằng hiện chưa thể khẳng định chắc chắn liệu tiếng Illyria là ngôn ngữ centum hay satem. tuy nhiên trong một công trình về sau thì Krahe đã cân nhắc lại quan điểm này.
Géza Alföldy đề xuất phân chia các vùng lãnh thổ của người Illyria bị sáp nhập vào cương thổ La Mã sau này dựa trên nghiên cứu về tên riêng ở Illyria. Ông phân ra năm nhóm chính: (1) "người Illyria chính cống" ở nam ngạn sông Neretva và kéo dài tới ranh giới với tỉnh Macedonia ở sông Drin, bao gồm cả những người Illyria ở Bắc và Trung Albania; (2) người Delmatae ở trung phần bờ biển Adriatic, ở giữa đất người Liburni và "người Illyria chính cống"; (3) người Liburni Venetic ở đông bắc biển Adriatic; (4) người Japodes ở phía bắc người Delmatae và ở xa hơn người Liburni, tên gọi của họ là dấu hiệu cho thấy sự hòa trộn giữa ảnh hưởng người Veneti, Celt và Illyria; và (5) người Pannoni ở miền bắc Bosnia, bắc Montenegro và tây Serbia.
Radoslav Katičić bác bỏ cách phân loại này; dựa trên các tên riêng phổ biến của người Illyria "Illyricum", học giả này xác lập ba vùng lãnh thổ phân biệt: (1) Người Illyria Đông Nam, cư trú trải dài về phía nam từ nam bộ Montenegro và bao gồm phần lớn lãnh thổ của Albania ở phía tây sông Drin, mặc dù địa giới phía nam của vùng này còn là vấn đề chưa được làm rõ; (2) Người Illyria Trung, đất đai bao gồm phần lớn lãnh thổ Nam Tư, từ phía bắc của nam bộ Montenegro tới phía tây sông Morava, có lẽ bao gồm cả Pannonia ở phía bắc nhưng lại không gồm đất Liburnia cổ ở phía tây bắc; (3) Người Liburni, đặc trưng với những tên riêng tương tự như đã tìm thấy ở đất người Veneti ở phía đông bắc.
Phép đối chứng tên riêng không cung cấp được bằng chứng đầy đủ để khẳng định rằng người Illyria Đông Nam và Illyria Trung sử dụng hai phương ngữ khác nhau rõ rệt. Tuy nhiên, theo Katičić, vùng trung tâm của tiếng Illyria nằm ở mạn đông nam vùng Balkan, nơi thường được coi là đất của dân Illyria. Vùng đó ứng với Albania ngày nay. Người Illyria không để lại tới ngày nay bất cứ văn liệu nào khẳng định danh tính dân tộc và họ cũng không có bản khắc nào còn sống sót tới ngày nay; những dấu vết ngôn ngữ cuối cùng còn lại của người Illyria chỉ là một vài tên địa lý và một số giải nghĩa từ. phân các nguồn xác định vốn từ tiếng Illyria thành bốn loại: chữ khắc trên cổ vật; giải nghĩa từ trong văn liệu thời kỳ cổ đại; tên, bao gồm tên người (chủ yếu trên bia mộ) và tên địa lí (ví dụ như tên sông); từ mượn từ tiếng Illyria trong các ngôn ngữ khác. Loại cuối cùng vẫn là vấn đề gây tranh cãi. Các tên riêng được nghiên cứu có khoảng niên đại trải dài tới hơn một thiên niên kỷ, bao gồm cả các bằng chứng trên tiền cổ và các tên địa lí nguyên thủy được giả thuyết.
Niên đại
Tiếng Illyria được cho là tuyệt chủng vào khoảng giữa thế kỷ 2 và thế kỷ 6, tuy nhiên một nhánh có thể đã sống sót và phát triển thành tiếng Albania.
Có ý kiến cũng khẳng định rằng ngôn ngữ Illyria được duy trì ở vùng nông thôn, căn cứ theo lời chứng của Thánh Giêrônimô vào khoảng thế kỷ 4-5.
👁️
2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tiếng Illyria** là một ngôn ngữ hay một nhóm các ngôn ngữ Ấn-Âu nói bởi người Illyria sống ở Đông Nam Âu thời kỳ cổ đại. Ngoại trừ một số tên người và địa danh,
**Tiếng Dacia** là một ngôn ngữ Ấn-Âu đã tuyệt chủng, từng được nói tại khu vực dãy núi Karpat trong khoảng thời gian từ khoảng 3000–1500 TCN. Nó có lẽ từng là ngôn ngữ chính
thumb|Apollonia trong thời cổ. **Apollonia** (tiếng Hy Lạp cổ đại: Ἀπολλωνία κατ' Ἐπίδαμνον or Ἀπολλωνία πρὸς Ἐπιδάμνῳ, Apollonia kat' Epidamnon hay Apollonia pros Epidamno) là một thành phố Illyria Hy Lạp cổ đại, nằm trên
**Tiếng Albania** ( hay ) là một Ấn-Âu, là ngôn ngữ của người Albania miền Balkan và của kiều dân Albania ở châu Mỹ, (những nơi khác ở) châu Âu và châu Đại Dương. Đây
**Tiếng Albania Gheg** (cũng viết là **Albania Geg**; tiếng Albania Gheg: _gegarnt_, tiếng Albania: _gegë_ hoặc _gegërisht_) là một trong hai phương ngữ chính của tiếng Albania. Cái còn lại là Albania Tosk (tiếng Albania
thumb|right|Bản đồ ngôn ngữ bán đảo Ý thời đồ đá. Tiếng Veneti màu nâu. **Tiếng Veneti** là một ngôn ngữ Ấn-Âu, thường đặt trong nhóm ngôn ngữ gốc Ý (Italic). Đây là ngôn ngữ của
**Tiếng Dalmatia** là một ngôn ngữ Rôman từng được nói tại vùng Dalmatia của Croatia, cũng như những vùng xa về phía nam như Kotor tại Montenegro. Cái tên "Dalmatia" xuất phát từ tên một
**Albania** hay **Albanie** (An-ba-ni, ), tên chính thức **Cộng hoà Albania** (tiếng Albania: _Republika e Shqipërisë_, IPA ) là một quốc gia tại Đông Nam Âu. Nước này giáp biên giới với Montenegro ở phía
**Enver Hoxha** ( _En-ve Hô-gia_ 16 tháng 10 năm 1908 - 11 tháng 4 năm 1985) là nhà lãnh đạo của Albania từ năm 1944 cho đến khi qua đời vào năm 1985, với vai
**Ngữ hệ Ấn-Âu** là một ngữ hệ lớn có nguồn gốc từ Tây và Nam đại lục Á-Âu. Nó bao gồm hầu hết ngôn ngữ của châu Âu cùng với các ngôn ngữ ở sơn
**She’s the Man** (tạm dịch: _Cô ấy là đàn ông_) là một bộ phim hài Mỹ được sản xuất năm 2006 dựa trên vở kịch _Twelfth Night_ của William Shakespeare mặc dù nội dung câu
**Glaukias **(tiếng Hy Lạp: Γλαυκίας; cai trị c.335-c.302 BC) là một trong những vị vua vĩ đại nhất của nước Taulanti mà cai trị người Illyria trong nửa sau của thế kỷ thứ 4 trước
thumb|[[Stradun (đường)|Stradun, đường chính của Dubrovnik]] thumb|Phố cổ nhìn từ trên cao thumb|right|upright|[[Lâu đài Rector]] thumb|right|[[Tường thành Dubrovnik|Tháp Minčeta]] thumbnail|Cảnh phố cổ **Dubrovnik** (; tên cũ ) là một thành phố của Croatia nằm trên
thumb|316x316px|Bầu trời xanh biếc trên thảo nguyên Ukraina. **_*Dyḗus_** (nghĩa đen: "thần-bầu trời-ban ngày") hoặc **_*Dyḗus ph₂tḗr_** (nghĩa đen: "cha thần-bầu trời-ban ngày"), là tên gọi của vị thần ban ngày-bầu trời trong thần thoại
**Valentinianus I** (; 321-17 tháng 11 năm 375), cũng gọi là **Valentinianus Đại đế**, Ông là Hoàng đế La Mã từ năm 364-375. Sau khi trở thành hoàng đế ông, em trai của ông hoàng
**Bosna và Hercegovina** (tiếng Bosnia, tiếng Croatia, tiếng Serbia chữ Latinh: _Bosna i Hercegovina_, viết tắt _BiH_; tiếng Serbia chữ Kirin: Босна и Херцеговина, viết tắt _БиХ_; ,) là một quốc gia tại Đông Nam
**Dalmatia** (, ; là một vùng lịch sử của Croatia nằm trên bờ biển phía đông của biển Adriatic. Vùng trải dài từ đảo Rab ở tây bắc đến vịnh Kotor ở đông nam. Trong
**Anastasius I** (, ; 430 – 518) là Hoàng đế Byzantine từ năm 491 đến 518. Dưới triều đại của ông biên cương Đế quốc Đông La Mã đã mở rộng việc gia cố lại
**Marcellinus Comes** (? – 534) là một nhà biên niên sử Latinh của Đế quốc Đông La Mã. Sinh quán tại xứ Illyria, ông đã trải qua phần lớn đời mình tại triều đình Constantinopolis
**România** (tiếng România: _România_ , trong tiếng Việt thường được gọi là **Rumani** theo ), là một quốc gia nằm tại đông nam châu Âu, với diện tích 238.391 km². România giáp với Ukraina và Moldova
thumb|right|
Cardinal Giuseppe Caspar Mezzofanti **Giuseppe Caspar Mezzofanti** (19 tháng 9 năm 1774 - 15 tháng ba 1849) là một hồng y và nhà ngôn ngữ học người Ý nổi tiếng biết nhiều ngôn ngữ. Sinh**Kosovo** ( ; ) là một lãnh thổ tranh chấp và quốc gia được một bộ phận quốc tế công nhận tại Đông Nam Âu, tuyên bố độc lập khỏi Serbia vào năm 2008 với
thumb|right|Biểu trưng hoàng gia của Đế quốc Áo với quốc huy ít hơn (được sử dụng cho đến năm 1915 thời Áo-Hung) thumb|right|Biểu trưng hoàng gia của Đế quốc Áo với quốc huy vừa phải
**Thánh Giêrônimô** (khoảng 347 tại Stridon, Nam Tư – 30 tháng 9 năm 420 tại Bethlehem; tên đầy đủ trong tiếng Latinh: _Eusebius Sophronius Hieronymus_, tiếng Hy Lạp: ), cũng được gọi là **Thánh Giêrôm**
**_Commentarii de Bello Gallico_** (; "Tường thuật về cuộc chiến xứ Gallia") hay **_Bellum Gallicum_** ("Chiến tranh Gallia") là một cuốn hồi ký của Julius Caesar về cuộc chiến xứ Gallia, được viết dưới dạng
**Núi Říp** (, ; ), còn có tên là **Đồi Říp**, là một ngọn đồi cao 459m mọc đơn độc từ bình nguyên bằng phẳng trung tâm Bohemia; nơi này theo truyền thuyết là nơi
**Flavius Valerius Aurelius Constantinus** (sinh vào ngày 27 tháng 2 khoảng năm 280 – mất ngày 22 tháng 5 năm 337), thường được biết đến là **Constantinus I**, **Constantinus Đại Đế** hay **Thánh Constantinus** (đối
**Bán đảo Balkan** là một khu vực địa lý ở giữa biển Adriatic và biển Đen ngay góc đông nam của châu Âu, phạm vi chi tiết chiếu theo định nghĩa mà có rất nhiều
**Pula** hay **Pola** ( ; tiếng Ý và Istria-Rôman: _Pola_; ; Slovene và Chakavia: _Pulj_, Hungary: _Póla_, , tiếng Hy Lạp cổ đại: Πόλαι, _Polae_) là thành phô lớn nhất hạt Istria, Croatia và thành
thumb|upright=1.2|300|Cung điện Schönbrunn và các khu vườn, tranh của [[Bernardo Bellotto (1758/61)]] **Hiệp ước Schönbrunn** (tiếng Pháp: _Traité de Schönbrunn_; tiếng Đức: _Friede von Schönbrunn_; tiếng Anh: _Treaty of Schönbrunn_), đôi khi được gọi là
**Amy Louise Acker** (sinh ngày 5 tháng 12 năm 1976) là một diễn viên Mỹ. Cô ấy đã đóng vai Winifred Burkle và Illyria trong bộ phim truyền hình _Angel_ và Kelly Peyton trong phim
**Macedonia** (; ), còn được gọi là **Macedon** (), là một vương quốc cổ đại nằm ở ngoài rìa phía bắc của nền văn minh Hy Lạp Cổ xưa và Hy Lạp Cổ điển, và
**Alexandros III của Macedonia** (, ), thường được biết đến rộng rãi với cái tên **Alexander Đại đế** (tiếng Hy Lạp: _Megas Alexandros_, tiếng Latinh: _Alexander Magnus_), hay còn được một số tài liệu tiếng
Bộ binh Auxilia đang vượt sông, có lẽ là [[sông Donau|sông Danube, bằng cầu phao trong Cuộc chiến Chinh phục Dacia của Hoàng đế Trajan (101 - 106 CN). Có thể nhận ra họ từ
**Rijeka** (tiếng Croatia: _Rijeka_, tiếng Ý và tiếng Hungary: _Fiume_, tiếng địa phương Chakavia: _Reka_ hoặc _Rika_, tiếng Slovenia: _Reka_, tiếng Đức: _Sankt Veit am Flaum_ hoặc _Pflaum_ (cả lịch sử)) là cảng biển chính
**Cộng hòa Ragusa**, hay **Cộng hòa Dubrovnik**, là một nước cộng hòa hàng hải đặt tại trung tâm thành phố Dubrovnik (_Ragusa_ trong tiếng Ý và Latinh) ở Dalmatia (ngày nay là vùng cực nam
thumb|[[Vương quốc Macedonia (màu cam đậm) vào năm 336 TCN dưới triều đại của Philippos II của Macedonia; những vùng lãnh thổ khác bao gồm các quốc gia lệ thuộc của Macedonia (cam nhạt), người
Vốn ban đầu chỉ là một vương quốc đứng ngoài lề các vấn đề của thời kỳ Hy Lạp cổ điển, dưới triều đại của Philippos II (359–336 TCN), vương quốc Macedonia đã trở thành
**Split** (, như trong từ tiếng Anh _split_; ; xem tên khác) là thành phố lớn thứ hai của Croatia, đồng thời là thành phố lớn nhất vùng Dalmatia. Nó nằm bên bờ phía đông
**_Rome: Total War: Alexander_** (tạm dịch: _Rome: Chiến tranh tổng lực - Alexander Đại Đế_) là bản mở rộng thứ hai của trò chơi máy tính thể loại chiến lược theo lượt và chiến thuật
nhỏ|phải|Một con chó chăn cừu Nam Tư ở Mỹ **Chó chăn cừu Nam Tư** (tiếng Nam Tư: _Šarplaninac_, gọi tắt là _Sar_) là một giống chó chăn cừu có nguồn gốc từ Nam Tư (cũ),
nhỏ|Tranh trong huyệt mộ của người Thracia ở [[Kazanlak]] nhỏ|Vùng Thracia lịch sử cùng với biên giới ba nước [[Bulgaria, Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ]] nhỏ|The physical-geographical boundaries of Thrace: the Balkan Mountains, the
**Majorianus** () (420 – 461), là Hoàng đế Tây La Mã trị vì từ năm 457 đến 461. Ông là một tướng lĩnh của Quân đội thời Hậu La Mã, sau khi phế truất vị
**Makedonía** (, , cũng được viết là **Macedonia** theo tên tiếng Anh) là một vùng địa lý và lịch sử của Hy Lạp. Makedonía là vùng lớn nhất và đông dân cư thứ hai tại
Sự thay đổi về cương thổ của Cộng hòa La Mã, Đế quốc La Mã và Đế quốc Đông La Mã qua từng giai đoạn phát triển. Hình động, click vào để xem sự thay
**Villach** (; , , ) là thành phố lớn thứ nhì ở bang Kärnten và lớn thứ bảy ở Áo, nằm ở miền nam nước Áo, tọa lạc bên sông Drau (tiếng Slovenia _Drava_) và
**Đệ Nhất đế chế**, hay **chế độ Napoleon**, tên chính thức **Cộng hòa Pháp**, sau đó là **Đế quốc Pháp** (; ) là một chế độ chính trị trong lịch sử nước Pháp, do Napoléon
**Ulcinj** (chữ Kirin Montenegro: Улцињ, ; tiếng Albania: _Ulqini_) là một thị trấn tại bờ biển phía nam Montenegro và là thủ phủ của Khu tự quản Ulcinj. Dân số vùng đô thị là 10.707
Đế quốc La Mã dưới triều đại của [[Hadrian (cai trị từ năm 117-38 CN), cho thấy hai tỉnh của hoàng đế **Thượng Moesia** (Serbia) và **Hạ Moesia** (bắc Bulgaria/vùng bờ biển Romania) ơ khu
**Flavius Theodosius Augustus** (11 tháng 1 năm 347 – 17 tháng 1 năm 395), cũng được gọi là **Theodosius I** hay **Theodosius Đại đế**, là hoàng đế La Mã) trị vì từ năm 379 đến