✨Thú lông nhím mỏ ngắn

Thú lông nhím mỏ ngắn

Thú lông nhím mỏ ngắn (Tachyglossus aculeatus), là một trong bốn loài thú lông nhím còn sinh tồn và là thành viên duy nhất của chi Tachyglossus. Thú lông nhím mỏ ngắn được bao phủ bởi lớp lông cứng và gai nhọn, chúng có một cái mõm và cái lưỡi chuyên biệt để sử dụng bắt mồi với tốc độ tuyệt vời. Cũng giống như các loài động vật đơn huyệt khác còn tồn tại, thú lông nhím mỏ ngắn cũng là loài đẻ trứng.

Thú lông nhím mỏ ngắn có chi trước và móng vuốt cực kỳ mạnh mẽ, cho phép nó đào hang một cách nhanh chóng. Để có thể tồn tại, chúng đào những cái hang sâu dưới lòng đất. Nó có khả năng chịu đựng tốt trong môi trường có mức độ cao khí carbon dioxide và mức độ thấp oxy. Nó không có vũ khí hay khả năng chiến đấu, trước những kẻ săn mồi, chúng tự vệ bằng cách uốn cong cơ thể thành một quả cầu gai khiến cho bất cứ kẻ săn mồi nào cũng phải dè chừng. Thú lông nhím không có khả năng tiết mồ hôi và là động vật thân nhiệt kém, do đó, nó có xu hướng tránh hoạt động vào ban ngày trong thời tiết nắng nóng, và nó có thể bơi nếu cần thiết. Mõm của chúng giúp phát hiện những gì xung quanh đó.

Trong suốt mùa đông, nó đưa cơ thể vào trạng thái hôn mê sâu và ngủ đông để tiết kiệm năng lượng và giảm sự trao đổi chất. Thú lông nhím cái chỉ đẻ một quả trứng mỗi năm, và thời kỳ phối giống là thời gian duy nhất trong năm chúng gặp nhau, sau đó cả con đực và con cái không có liên hệ nào nữa. Con non mới đẻ có kích thước bằng một quả nho, nhưng phát triển nhanh chóng nhờ vào nguồn sữa giàu chất dinh dưỡng của mẹ chúng. Chúng phát triển trong túi của mẹ chúng và sau khoảng 6 tháng, chúng rời khỏi hang bắt đầu cuộc sống tự lập và cũng không còn mối liên hệ nào với mẹ của chúng nữa.

Loài này được tìm thấy trên khắp lục địa Úc và vùng ven biển, núi cao ở Tây nam New Guinea, nơi mà nó được biết đến với tên gọi là mungwe trong ngôn ngữ Daribi và Chimbu. Nó không bị đe dọa tuyệt chủng, nhưng những hoạt động của con người như săn bắn, phá hủy môi trường sống, cùng với việc di cư của các loài động vật gây hại và ký sinh trùng, đã làm giảm việc phân phối thú lông nhím mỏ ngắn tại Úc. Nỗ lực gây giống thú lông nhím trong điều kiện nuôi nhốt đã không thành công, khi không có con nào đạt đến độ trưởng thành. Tuy nhiên, thú lông nhím có thể tồn tại bởi nguồn thức ăn của chúng chỉ là kiến và mối, và nó có thể tồn tại trong môi trường bị hạn chế các nguồn tài nguyên.

Phân loại

Thú lông nhím mỏ ngắn lần đầu tiên được mô tả bởi George Shaw vào năm 1792. Ông đặt tên chúng là Myrmecophaga aculeata, vì nghĩ rằng nó có thể được liên quan đến thú ăn kiến ở Nam Mỹ. Kể từ khi Shaw lần đầu tiên mô tả loài này, tên của nó đã trải qua bốn phiên bản là: M. Hystrix Ornithorhynchus, Echidna Hystrix, Echidna aculeata và cuối cùng là Tachyglossus aculeatus. Tên Tachyglossus có nghĩa là "lưỡi nhanh",

Các thú lông nhím mỏ ngắn là các thành viên duy nhất của chi . Chúng cùng với các loài thú lông nhím mỏ dài thuộc chi Zaglossus còn tồn tại là những thú lông nhím duy nhất ở New Guinea. Trong đó các loài thú lông nhím mỏ dài có số lượng đáng kể hơn so với thú lông nhím mỏ ngắn, và chế độ ăn của chúng bao gồm cả sâu và ấu trùng chứ không phải chỉ có kiến và mối Các loài thú lông nhím mỏ ngắn là các động vật có vú đẻ trứng, cùng với thú mỏ vịt là các động vật đơn huyệt còn tồn tại trên thế giới.

Năm phân loài thú lông nhím mỏ ngắn được tìm thấy tại các vùng địa lý khác nhau. Các phân loài khác nhau chiều dài và chiều rộng cột sống, kích thước của móng vuốt chi sau

  • T. a. acanthion được tìm thấy trong Northern Territory và Western Australia.
  • T. a. aculeatus được tìm thấy ở Queensland, New South Wales, Nam Úc và Victoria.
  • T. a. multiaculeatus được tìm thấy trên đảo Kangaroo.
  • T. a. setosus được tìm thấy tại Tasmania và một số đảo ở eo biển Bass. nhỏ|trái|Một con thú lông nhím mỏ ngắn T. a. setosus tại [[Vườn quốc gia Mount Field, Tasmania]]

Thú lông nhím mỏ ngắn thường được gọi là thú ăn kiến gai trong các tài liệu cũ, mặc dù thuật ngữ này bị bỏ từ khi thú lông nhím đã được chứng minh là không liên quan đến các thú ăn kiến. Trong ngôn ngữ bản địa, nó mang rất nhiều tên gọi khác nhau. Những người Noongar ở Western Australia gọi nó là nyingarn. Phía tây nam của Trung tâm Úc, Alice Springs, ngôn ngữ Pitjantjatjara gọi là tjilkamata hoặc tjirili, từ tjiri có thể bắt nguồn từ tên loại cỏ Triodia (Triodia irritans) hoặc cũng có nghĩa là "chậm chạp". Trung tâm bán đảo Cape York, nó được gọi là (minha) kekoywa ở Pakanh, minha là một ý nghĩa là "thịt" hoặc "động vật", (inh-) ekorak ở UW Oykangand và (inh-) egorag ở UW Olkola, inh có ý nghĩa như là một loại "thịt" hoặc "động vật". Ở các vùng cao nguyên phía Tây nam New Guinea, nó được biết đến như là mungwe trong ngôn ngữ Daribi và Chimbu. Tuy nhiên, phân loài ở Tasmania là T. a. setosus nhỏ hơn so với các phân loài khác ở lục địa Úc. Lỗ tai nằm ở hai bên đầu. Hai lỗ mũi và miệng ở xa so với phần mõm; Lỗ tai ở cả hai bên đầu, Cơ thể của chúng nói chung là ngắn, với phần dưới của khuôn mặt và chân là không có gai, còn lại được bao phủ bởi các gai và lông nhọn có màu kem. Các gai nhọn này phát triển từ cột sống có thể dài đến 50 mm (2 in) Giữa các xương đốt sống có lớp lông giữa cách điện màu mật ong hay màu đỏ nâu sẫm và thậm chí màu đen. Đuôi của thú lông nhím ngắn cũng được bao phủ lớp lông.

Các chi của thú lông nhím mỏ ngắn được điều chỉnh phù hợp để đào nhanh chóng, tuy ngắn nhưng lại có những móng vuốt vô cùng mạnh mẽ. Lợi thế cơ học chi trước của nó so với kích thước thì lớn hơn cả con người,.

Móng vuốt chi sau dài và cong ngược trở lại, cho phép nó làm sạch và chải chuốt cơ thể gai góc. Giống như loài thú mỏ vịt, thú lông nhím có nhiệt độ cơ thể thấp, giữa 30 và 32 °C (86 và 90 °F), nhưng không giống như loài thú mỏ vịt không có tình trạng hôn mê ngủ đông, nhiệt độ cơ thể của thú lông nhím có thể rơi xuống thấp nhất là 5 °C (41 °F). Các loài thú lông nhím cũng không tiết mồ hôi , vì thế chúng thường phải tìm kiếm nơi trú ẩn trong điều kiện nắng nóng. Mặc dù không có khả năng đổ mồ hôi, thú lông nhím lại còn chịu mất nước mỗi lần thở ra. Mõm được cho là rất quan trọng trong việc hạn chế sự mất nước này, thông qua một mê cung xương có một hệ thống làm đông hiệu quả và giúp ngưng tụ hơi nước khi thở. thú lông nhím mất nước một nửa mỗi ngày, khoảng 120 g (4.2 oz) thông qua nước tiểu, trong khi phần còn lại là thông qua da và hệ thống hô hấp.. Hầu hết lượng nước thiếu hụt được bổ sung trong quá trình ăn, theo nghiên cứu thí nghiệm thú lông nhím sẽ ăn khoảng 147 g mỗi ngày (5,2 oz), hầu hết trong số đó là nước.

Từ mùa thu đến hết mùa đông là thời gian thú lông nhím mỏ ngắn ngủ mê hoặc ngủ đông sâu. Bởi vì nhiệt độ cơ thể thấp, nó sẽ trở nên chậm chạp trong thời tiết rất nóng nực hoặc quá lạnh. để bài tiết phân, nước tiểu và sinh sản. Con đực có tinh hoàn ở bên trong, bên ngoài không có bìu và dương vật bất thường với bốn nút bấm trên đầu

trái|nhỏ|Thú lông nhím mỏ ngắn cuộn tròn thành một quả bóng gai góc Các hệ thống cơ của thú lông nhím mỏ ngắn có một số điều khác thường. Chúng có lớp cơ dưới da bao trùm toàn bộ cơ thể, Carnosus panniculus. Co thắt của các bộ phận khác nhau của các carnosus panniculus khiến cho thú lông nhím mỏ ngắn có thể thay đổi hình dạng, đặc trưng nhất chính là việc nó cuộn tròn thành một quả bóng khi bị đe dọa. Nó có dây cột sống được xem là ngắn nhất trong các loài động vật có vú, dài không quá ngực. Trong khi tủy sống của con người kết thúc ở thắt lưng đầu tiên hoặc thứ hai nhưng thú lông nhím lại kết thúc ở đốt sống ngực thứ 7. Dây cột sống ngắn cho phép thú lông nhím mỏ ngắn linh hoạt để quấn thành một quả bóng. Lưỡi của chúng có chất kết dính vì có sự hiện diện của glycoprotein, giúp bôi trơn cho việc vận động của lưỡi, để chúng bắt kiến và mối được dễ dàng. Lưỡi nhô ra sẽ cứng lại bởi dòng chảy nhanh trong máu, cho phép nó thâm nhập được vào gỗ và đất. Khi rút lại đòi hỏi phải có sự co lại của hai cơ nội bộ theo chiều dọc, được biết đến như sternoglossi. Khi lưỡi được rút lại, con mồi sẽ rơi vào khoang miệng để nghiền và xay thức ăn. Điều này đạt được thông qua một phần tính đàn hồi của lưỡi và chuyển đổi năng lượng đàn hồi thành năng lượng động lực. Lưỡi chúng rất linh hoạt, đặc biệt là lúc rụt lại, cho phép nó uốn cong đầu lưỡi không cho con mồi chạy thoát.. Ngoài ra, lưỡi của chúng cũng có khả năng để tránh các mảnh vỡ trong khi tìm kiếm thức ăn. Nó ăn một cách nhanh chóng, một con thú lông nhím khoảng 3 kg (6,6 lb) có thể ăn 200 g mối (7,1 oz) trong 10 phút. Không giống như động vật có vú khác, dạ dày thường có tính acid cao, thú lông nhím có mức độ axit thấp, gần như trung tính, với độ pH trong khoảng 6,2-7,4.. Tiêu hóa xảy ra tại ruột non có chiều dài khoảng 3,4 m (11 ft). Phần cứng của côn trùng và đất không được tiêu hóa, do đó, được thải ra qua lỗ huyệt.

Văn hóa

Nhân vật thú lông nhím Knuckles (Knuckles the Echidna) xuất hiện trong loạt series video game Sonic the Hedgehog và phim hoạt hình điện ảnh Sonic the Hedgehog 2

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Thú lông nhím mỏ dài**, tên khoa học **_Zaglossus_**, là một chi thú lông nhím, động vật đơn huyệt gai sống ở New Guinea. Chi này hiện nay chỉ còn 3 loài tồn tại trong
**Thú lông nhím mỏ dài Tây New Guinea** (danh pháp khoa học: **_Zaglossus bruijni_**) là một trong bốn loài thú lông nhím còn tồn tại và là một trong ba loài _Zaglossus_ ở New Guinea.
**Thú lông nhím mỏ ngắn** (_Tachyglossus aculeatus_), là một trong bốn loài thú lông nhím còn sinh tồn và là thành viên duy nhất của chi **_Tachyglossus_**. Thú lông nhím mỏ ngắn được bao phủ
**Họ Thú lông nhím** (danh pháp khoa học: _Tachyglossidae_) gồm những động vật có vú gọi là **thú lông nhím**, đôi khi còn được gọi là **thú ăn kiến có gai** trong bộ Đơn huyệt
**Thú mỏ vịt** (tên khoa học: **_Ornithorhynchus anatinus_**) là một loài động vật có vú đẻ trứng bán thuỷ sinh đặc hữu của miền đông Úc, bao gồm cả Tasmania. Dù đã khai quật được
**Nhím lông** hay thường được gọi là **Nhím** (tiếng Anh: _porcupine_) là tên gọi cho một số loài động vật thuộc bộ Gặm nhấm (_Rodentia_). Chúng phân bố trên cả Cựu Thế giới và Tân
**Lớp Thú** (**Mammalia**) (từ tiếng Latinh _mamma_, "vú"), còn được gọi là **động vật có vú** hoặc **động vật hữu nhũ**, là một nhánh động vật có màng ối nội nhiệt được phân biệt với
#đổi Thú lông nhím mỏ ngắn Thể loại:Phân loài thuộc lớp Thú
#đổi Thú lông nhím mỏ ngắn Thể loại:Phân loài thuộc lớp Thú
#đổi Thú lông nhím mỏ ngắn Thể loại:Phân loài thuộc lớp Thú
#đổi Thú lông nhím mỏ ngắn Thể loại:Phân loài thuộc lớp Thú
#đổi Thú lông nhím mỏ ngắn Thể loại:Phân loài thuộc lớp Thú
**Bằng chứng về tổ tiên chung** đã được phát hiện bởi các nhà khoa học nghiên cứu trong nhiều ngành khoa học trong nhiều thế kỷ, đã chứng minh rằng tất cả các sinh vật
**Vườn quốc gia Lorentz** là một vườn quốc gia nằm tại phía tây của đảo New Guinea thuộc tỉnh Papua, Indonesia. Với diện tích 25.056 km² (9.674 mi2), đây là vườn quốc gia lớn nhất Đông Nam
**_Nhím Sonic_** (tên gốc tiếng Anh: **_Sonic the Hedgehog_**) là phim điện ảnh hài hước phiêu lưu hành động của Mỹ và Nhật Bản năm 2020 dựa trên loạt video game _Sonic the Hedgehog_ do
nhỏ|phải|Loài [[tê tê với cơ thể đầy vảy giáp che chắn cơ thể]] **Giáp mô** là phần cơ quan sinh học của động vật hình thành như một sự bảo vệ bên ngoài hoặc bề
nhỏ|phải|Một con [[nai đen tại Thảo cầm viên Sài Gòn, nai là loài thú phổ biến ở Việt Nam]] **Thú** là nhóm động vật có xương sống được biết rõ nhất ở Việt Nam, sau
**Họ Nhím chuột** (**Erinaceidae**) là một họ thuộc Bộ Eulipotyphla, bao gồm nhím gai và nguyệt thử. Cho đến gần đây, chúng mới được chỉ định vào Bộ Erinaceomorpha, được đổi từ Bộ Chuột chù
**Vườn thôn dã Long Hổ Sơn** (được thành lập ngày 18 tháng 12 năm 1998) là một vườn thôn dã nằm ở Quận Trung Tây, Hồng Kông. Vườn bao phủ các sườn núi rậm rạp
thumb|[[Cá voi lưng gù (_Megaptera novaeangliae_)]] thumb|[[Hải cẩu báo (_Hydrurga leptonyx_)]] **Thú biển** hay **động vật có vú biển** là các loài thú (động vật có vú) sống dựa vào đại dương và các hệ
nhỏ|phải|Xác một con hươu bị cán chết ở [[Mỹ, ở Bắc Mỹ, hươu là loài vật thường xuyên va chạm gây tai nạn trên đường cao tốc]] nhỏ|phải|Một con khỉ chết tươi vì bị xe
**Hổ Bengal** hay **Hổ hoàng gia Bengal** (danh pháp khoa học: **_Panthera tigris tigris_**) là một phân loài hổ được tìm thấy nhiều nhất tại Bangladesh, Ấn Độ, Nepal, Bhutan và miền nam Tây Tạng.
**Úc** hay **Australia**, **Úc Châu**, **Úc Đại Lợi** (phát âm tiếng Anh: ,), tên chính thức là **Thịnh vượng chung Úc** (), là một quốc gia có chủ quyền nằm ở giữa Ấn Độ Dương
**Hổ Sumatra** (danh pháp hai phần: _Panthera tigris sumatrae_) là một phân loài hổ nhỏ nhất còn sống sót, được tìm thấy ở đảo Sumatra (Indonesia). Theo Sách đỏ IUCN, chúng là loài cực kỳ
nhỏ|phải|[[Hươu nai, con mồi phổ biến của các loài hổ, báo, sói, gấu...]] **Con mồi** hay **thú mồi** là một thuật ngữ sinh thái học chỉ về một động vật là đối tượng bị săn
nhỏ|430x430px|BrdU (màu đỏ), thể hiện quá trình neurogenesis trong trung khu dưới hạt (SGZ) của vùng DG hồi hải mã. Hình ảnh minh họa này của Faiz và cộng sự, năm 2005. **Khoa học thần
**Thảo Cầm Viên Sài Gòn**, hay còn được gọi ở địa phương là **Sở Thú**, là công viên bảo tồn động vật - thực vật rộng 16,8 ha ở Thành phố Hồ Chí Minh, Việt
**Thế Paleocen** hay **thế Cổ Tân** ("bình minh sớm của gần đây"), là một thế kéo dài từ khoảng 66,0 ± 0,3 triệu năm trước (Ma) tới khoảng 56,0 ± 0,2 Ma. Nó là thế
**Tối ưu hóa việc kiếm ăn** hay còn gọi là **lý thuyết kiếm ăn tối ưu** (tiếng Anh: _Optimal foraging theory_, viết tắt: **OFT**) là một mô hình sinh thái học hành vi giúp dự
** Mèo túi** (danh pháp khoa học: **_Dasyurus_**) hay còn gọi là **Quoll** hoặc **Cầy túi** là một loài thú có túi ăn thịt bản địa của lục địa Úc, New Guinea và Tasmania. Nó
thumb|Các loài của [[bộ Cá vây tay được cho là đã tuyệt chủng cách đây , cho đến khi một mẫu vật sống thuộc bộ này được phát hiện vào năm 1938. Ví dụ như
nhỏ|Hình 1: Tinh trùng bắt đầu thụ tinh cho trứng (ở động vật). **Thụ tinh** là quá trình kết hợp giữa giao tử đực với giao tử cái. Ở động vật, giao tử đực là
**Người Neanderthal** (phát âm tiếng Anh: , còn được viết là **Neandertal**, phiên âm tiếng Việt: **Nêanđectan**, với các danh pháp khoa học: **_Homo neanderthalensis_** hay **_Homo sapiens neanderthalensis_**) Nhiều học giả khác đề xuất
**_Phim anh em Super Mario_** (tiếng Anh: _The Super Mario Bros. Movie_) là một bộ phim điện ảnh hoạt hình máy tính MỹNhật Bản thuộc thể loại kỳ ảohành độnggiả tưởng công chiếu năm 2023
**Rượu cần** là đồ uống thường xuyên, phổ biến và bất biến của các cư dân bản địa Tây Nguyên. Uống rượu cần trở thành phong tục, có nguồn gốc khá lâu đời, thành nét
**James Eugene Carrey** (sinh ngày 17 tháng 1 năm 1962; nghệ danh là **Jim Carrey**) là một nam diễn viên, danh hài, biên kịch và nghệ sĩ người Mỹ gốc Canada. Ông nổi tiếng với
**_Hystrix indica_** là một loài nhím thuộc họ Nhím lông Cựu Thế giới (Hystricidae). Thân mình chúng (từ chóp mũi đến gốc đuôi) dài 70–90 cm, đuôi dài 8–10 cm. Không rõ tuổi thọ của _H. indica_
**Đà Lạt** là thành phố tỉnh lỵ cũ trực thuộc tỉnh Lâm Đồng nằm trên cao nguyên Lâm Viên, thuộc vùng Tây Nguyên, Việt Nam. Từ xa xưa, vùng đất này vốn là địa bàn
**Sư tử** (_Panthera leo_) là một trong những loài đại miêu của họ Mèo, chi Báo. Được xếp mức sắp nguy cấp trong thang sách Đỏ IUCN từ năm 1996, các quần thể loài này
**Báo hoa mai** (_Panthera pardus_), thường gọi tắt là **báo hoa**, (tiếng Anh: **Leopard**) là một trong năm loài mèo lớn thuộc chi _Panthera_ sinh sống ở châu Phi và châu Á. Chúng dài từ
nhỏ|phải|Một con hổ dữ nhỏ|phải|Một con [[hổ Sumatra, chúng là phân loài hổ có thể hình nhỏ nhất nhưng lại hung hăng và tích cực tấn công con người]] **Hổ vồ người** (hay **hổ vồ
**_Irritator_** là một chi khủng long chân thú đại long xương gai sống ở nơi hiện nay là Brazil trong tầng Alian vào đầu kỷ Phấn trắng, khoảng 110 triệu năm trước. Chi này được
**Lý Tố** (chữ Hán: 李愬, 773 – 821), tên tự là **Nguyên Trực**, người Lâm Đàm, Thao Châu , là tướng lĩnh trung kỳ nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông tham gia trấn
Một cảnh [[săn lợn rừng bằng chó săn]] thumb|Quý tộc [[đế quốc Mogul săn linh dương đen Ấn Độ cùng với báo săn châu Á]] **Săn** là hành động giết hay bẫy bất kỳ loài
Hồi ấy, tụi tui đóng quân gần Cơi Năm, nơi bác Ba Phi ở. Thỉnh thoảng, bác vô thăm tụi tui và cung cấp nhu yếu phẩm. Có lúc thì mấy cây thuốc gò, mấy
**Hổ** hay còn gọi là **cọp**, **hùm** (và các tên gọi khác như **Ông ba mươi**, **kễnh**, **khái**, danh pháp khoa học: _Panthera tigris_) là một loài động vật có vú thuộc họ Mèo được
thumb|Một tấm poster của anime bao gồm các nhân vật theo chiều kim đồng hồ: Ichika, Nino, Itsuki, Miku, Futarou và Yotsuba. Dưới đây là danh sách tất cả các nhân vật xuất hiện trong
**Thuần dưỡng voi rừng** hay còn gọi là **thuần dưỡng voi** là một phương pháp để thuần phục những con voi rừng hoang dã bằng các biện pháp khác nhau để huấn luyện chúng trở
**Hổ Đông Dương** hay **hổ Corbett** (danh pháp khoa học: **_Panthera tigris corbetti_**) là một phân loài hổ sống chủ yếu ở bán đảo Đông Dương, được tìm thấy tại Campuchia, Lào, Myanma, Thái Lan
**Báo gấm** (_Neofelis nebulosa_) hay **báo mây**, (tiếng Anh: **Clouded Leopard**) là một loài mèo cỡ trung bình trong Họ Mèo, toàn thân dài 60 tới 110 cm (2' - 3'6") và cân nặng khoảng 11