✨Thốc Phát Lợi Lộc Cô

Thốc Phát Lợi Lộc Cô

Thốc Phát Lợi Lộc Cô () (?-402), hay Hà Tây Khang Vương (河西康王), là một người cai trị của nước Nam Lương trong lịch sử Trung Quốc. Ông là em trai của Thốc Phát Ô Cô, tức vua khai quốc của Nam Lương. Ông được mô tả là một người cai trị cởi mở với các ý kiến khác nhau. Ông đã giao phó các công việc quan trọng nhất của đất nước cho người em trai tài năng là Thốc Phát Nục Đàn, và người này về sau đã kế vị ngai vàng của ông.

Trước khi lên ngôi

Thốc Phát Lợi Lộc Cô được sử sách nói đến lần đầu là vào năm 397, một thời gian ngắn sau khi Thốc Phát Ô Cô tuyên bố độc lập khỏi Hậu Lương và lập nước Nam Lương. Vào mùa thu năm đó, Thốc Phát Ô Cô đã cử ông đi giúp đỡ cho một cuộc nổi loạn tại Hậu Lương của Quách Nôn (郭黁). Vào mùa hè năm 398, ông cùng với một lãnh đạo nổi loạn khác tại Hậu Lương là Dương Quỹ (楊軌), giao chiến với Lã Toản (một con trai của hoàng đế Lã Quang của Hậu Lương) song đã bị Lã Toản đánh bại, Dương Quỹ cuối cùng phải từ bỏ nổi loạn và chạy trốn đến Nam Lương. Năm 399, như là một phần trong việc tổ chức lại việc phòng thủ của Thốc Phát Ô Cô, kinh thành đã được chuyển từ Kim Thành (金城, nay thuộc Lan Châu, Cam Túc) đến Lạc Đô (樂都, nay thuộc Hải Đông, Thanh Hải), Thốc Phát Lợi Lộc Cô được anh trai giao trấn thủ An Di (安夷, cũng thuộc Hải Đông ngày nay). Vào mùa hè năm 399, Thốc Phát Ô Cô cử ông đến giúp đỡ vua Đoàn Nghiệp của nước Bắc Lương khi Bắc Lương bị Lã Toản và thái tử Lã Thiệu của Hậu Lương tấn công, với sự giúp đỡ này thì Lã Toán và Lã Thiệu đã phải rút quân. Ngay sau đó, ông được giao trấn thủ thành Tây Bình (西平, nay thuộc Tây Ninh, Thanh Hải).

Cuối năm đó, Thốc Phát Ô Cô đã gặp phải một tai nạn nghiêm trọng khi cưỡi ngựa trong lúc say rượu, và trong những lời trăn trối cuối cùng, ông đã ra lệnh rằng phải chọn một người đã lớn tuổi kế vị mình. Các quý tộc Nam Lương do đó đã lựa chọn Thốc Phát Lợi Lộc Cô kế vị.

Trị vì

Sau khi kế vị Thốc Phát Ô Cô, Thốc Phát Lợi Lộc Cô dời đô từ Lạc Đô về Tây Bình. Vào đầu năm 400, Lã Toản (lúc này đã trở thành hoàng đế của Hậu Lương) đã lên kế hoạch tấn công ông, quan Dương Dĩnh (楊穎) của Hậu Lương khi cố thuyết phục Lã Toản không thực hiện việc này, đã miêu tả chế độ của Thốc Phát Lợi Lộc Cô là "với một tấm lòng thống nhất, với các thuộc cấp thực hiện chỉ thị của ông một cách trung thành, không có cơ hội nào để tận dụng,". Khi Lã Toản tấn công bất chấp lời khuyên của Dương, Thốc Phát Lợi Lộc Cô đã cử Thốc Phát Nục Đàn đi chống lại và đã đánh bại được Lã Toản.

Vào mùa hè năm 400, khi Lã Toản thực hiện một cuộc tấn công lớn vào Bắc Lương, Thốc Phát Nục Đàn, có lẽ là theo chỉ thị của Thốc Phát Lợi Lộc Cô, đã tiến hành một cuộc tấn công bất ngờ vào kinh thành Cô Tang (姑臧, nay thuộc Vũ Uy, Cam Túc) của Hậu Lương, tiến vào được nửa phía đông của Cô Tang và cướp bóc thành rồi rút lui, khiến cho Lã Toản phải từ bỏ chiến dịch đánh Bắc Lương của mình.

Cuối năm đó, sau khi vua Khất Phục Càn Quy của Tây Tần bị Hậu Tần đánh bại, Khất Phục Càn Quy đầu hàng Thốc Phát Lợi Lộc Cô. Ban đầu, em trai của Thốc Phát Lợi Lộc Cô là Thốc Phát Câu Diên (禿髮俱延) nghi ngờ sự chân thành của Khất Phục Càn Quy và yêu cầu Bắc Lương nên đưa Khất Phục Càn Qy đi lưu đày ở phía tây của hồ Thanh Hải song Thốc Phát Lợi Lộc Cô đã từ chối và nói rằng nếu mình làm như vậy thì sẽ không còn ai đến Bắc Lương đầu hàng ông. Tuy nhiên, khi Khất Phục Càn Quy cuối cùng lại bỏ đến Hậu Tần, Thốc Phát Lợi Lộc Cô đã hối tiếc nhiều vì không giết chết hay đưa người này đi lưu đày. Sau đó, khi con trai của Khất Phục Càn Quy là Khất Phục Sí Bàn cố bỏ trốn để đến chỗ phụ thân song bị bắt lại, Thốc Phát Lợi Lộc Cô đã chuẩn bị xử tử ông ta song do được Thốc Phát Nục Đàn thuyết phục nên ông đã không làm như vậy.

Vào mùa xuân năm 401, theo lời thỉnh cầu của nhiều triều thần, Thốc Phát Lợi Lộc Cô đã tính đến việc xưng đế. Tuy nhiên, ông lại nghe theo lời khuyên của tướng Thâu Vật Lôn (鍮勿崙) rằng một tuyên bố như vậy sẽ biến ông trở thành mục tiêu của những kẻ khác và đã từ bỏ kế hoạch này; đúng hơn, ông chỉ đổi tước hiệu từ Vũ Uy vương (đã được Thốc Phát Ô Cô sử dụng) thành Hà Tây vương, có nghĩa là tuyên bố chủ quyền ở khu vực phía tây của Hoàng Hà. Đến cuối năm, ông đích thân thực hiện một cuộc tấn công chống lại Hậu Lương của Lã Long và đã thành công.

Đến năm 401, có một cuộc trao đổi giữa Thốc Phát Lợi Lộc Cô và viên quan có tên là Sử Cảo (史暠) rằng có thể chứng minh cả sức mạnh và điểm yếu của Thốc Phát Lợi Lộc Cô trong vai trò người cai trị đất nước. Điều này diễn ra vào dịp Thốc Phát Lợi Lộc Cô lệnh cho các quan lại bình phẩm một cách thẳng thắn sự cai trị của ông. Sử Cảo nói:

:Mỗi lần, khi bệ hạ cử tướng đi đánh trận, không một ai có thể phản đối họ. Tuy nhiên, họ không coi việc bình định dân chúng là ưu tiên, thay vào đó lại chỉ tập trung tái định cư bọn họ. Người dân muốn có cuộc sống ổn định và lo ngại về vùng đất mà họ không quen thuộc. Đó là lý do vì sao mà nhiều người nổi loạn hoặc trốn chạy. Đó là lý do vì sao chúng ta liên tục giết được các tướng địch và chiếm được nhiều thành của địch, song đất đai của chúng ta không mở mang.

Thốc Phát Lợi Lộc Cô đồng ý với Sử Cảo. Tuy nhiên, không có tường thuật nào về việc Thốc Phát Lợi Lộc Cô đã thay đổi chính sách theo đề xuất của Sử Cảo. Trong thời gian trị vì còn lại của Thốc Phát Lợi Lộc Cô, tiếp tục có các tư liệu về việc quân Nam Lương cưỡng chế người dân di chuyển.

Mặc dù vậy, vào thời điểm này, quyền lực của Thốc Phát Lợi Lộc Cô đã khá lớn mạnh, đến nỗi vào mùa thu năm 401, vua mới của Bắc Lương là Thư Cừ Mông Tốn đã buộc phải cử con trai là Thư Cừ Hề Niệm (沮渠奚念) đến chỗ Thốc Phát Lợi Lộc Cô làm con tin để thể hiện sự khuất phục. Tuy nhiên, Thốc Phát Lợi Lộc Cô đã từ chối nhận Thư Cừ Hề Niệm làm con tin, nói rằng Thư Cừ Hề Niệm còn quá trẻ và ông muốn Thư Cừ Mông Tốn phải đưa em trai là Thư Cừ Noa (沮渠挐) đến, người này cũng là một chiến lược gia và tướng quân chính yếu. Thư Cừ Mông Tốn ban đầu từ chối và nói rằng ông cần Thư Cừ Noa để giúp đỡ mình, điều này đã khiến Thốc Phát Lợi Lộc Cô giận dữ và ông đã cử Thốc Phát Câu Diên cùng một người em khác là Thốc Phát Văn Chi (禿髮文支) đi đánh Bắc Lương và bắt được một người anh em họ của Thư Cừ Mông Tốn tên là Thư Cừ Thiện Thiện Cẩu Tử (沮渠鄯善苟子). Thư Cừ Mông Tốn đã hạ mình khuất phục sau sự kiện này và cử thúc phụ Thư Cừ Khổng Già (沮渠孔遮) đến hứa là sẽ đưa Thư Cừ Noa đến Nam Lương làm con tin, trước khi Thốc Phát Lợi Lộc Cô rút quân và trả lại những người mà họ đã bắt giữ. Tuy nhiên, tự thân Thốc Phát Lợi Lộc Cô đã nhận thức được quyền lực hạn chế của mình, và ông cũng chịu khuất phục trên danh nghĩa đối với Diêu Hưng, hoàng đế của Hậu Tần, và gửi triều cống cho Diêu Hưng. Năm 401, khi Hậu Tần tấn công Hậu Lương, ông đã ra lệnh cho quân của mình rút lui để nhường đường cho quân Hậu Tần.

Khoảng tết năm 402, đáp lại yêu cầu xin hỗ trợ từ quân nổi loạn Tiêu Lãng (焦朗) tại Hậu Lương, Thốc Phát Lợi Lộc Cô đã cử Thốc Phát Nục Đàn đi hỗ trợ Tiêu Lãng, và hai đội quân sau đó đã tấn công Cô Tang, khiến cho quân Hậu Lương phải chịu đại bại. Tuy nhiên, đến khi Bắc Lương tấn công Hậu Lương vào mùa xuân năm 402, Thốc Phát Lợi Lộc Cô lại cử thốc Phát Nục Đàn đi giúp Hậu Lương, mặc dù vậy, lúc quân Thốc Phát Nục Đàn đến, Bắc Lương đã rút lui.

Cũng vào mùa xuân năm 402, Thốc Phát Lợi Lộc Cô lâm bệnh, và ông đã chỉ thị giao phó việc quản lý đất nước cho Thốc Phát Nục Đàn. Sau khi Thốc Phát Lợi Lộc Cô qua đời, Thốc Phát Nục Đàn lên kế vị.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Thốc Phát Lợi Lộc Cô** () (?-402), hay **Hà Tây Khang Vương** (河西康王), là một người cai trị của nước Nam Lương trong lịch sử Trung Quốc. Ông là em trai của Thốc Phát Ô
**Thốc Phát Tư Phục Kiện** () là một thủ lĩnh Thốc Phát Tiên Ti vào thời Ngũ Hồ thập lục quốc. Tư Phục Kiện là nhi tử của Thôi Cân, phụ thân cũng là thủ
**Thốc Phát Nục Đàn** () (365–415), gọi theo thụy hiệu là**(Nam) Lương Cảnh Vương** ((南)涼景王), là vua cuối cùng của nước Nam Lương trong lịch sử Trung Quốc. Ông là một trong số các con
**Thốc Phát Ô Cô** () (?-399), gọi theo thụy hiệu là **Vũ Uy Vũ Vương** (武威武王), là vua khai quốc của nước Nam Lương trong lịch sử Trung Quốc. Ông ban đầu là một chư
**Thốc Phát Thất Cô** (), còn có tên là **Sơ Cô** (疋孤), là một thủ lĩnh bộ lạc Hà Tây Tiên Ti. Ông là thế tổ đời thứ 8 của Thốc Phát Lợi Lộc Cô-
**Khất Phục Sí Bàn** () (?-428), gọi theo thụy hiệu là **(Tây) Tần Văn Chiêu Vương** ((西)秦文昭王), là vị vua thứ 3 nước Tây Tần thời Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung
**Thư Cừ Mông Tốn** () (368–433) là một người cai trị của nước Bắc Lương thời Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung Quốc, và là vua đầu tiên của thị tộc Thư
**Nam Lương** (397 – 414) là một nước trong thời Ngũ Hồ Thập lục quốc do Thốc Phát Ô Cô người tộc Tiên Ti ở Hà Tây kiến lập ở khu vực Thanh Hải. ##
**Khất Phục Càn Quy** () (?-412), thụy hiệu là **Hà Nam Vũ Nguyên vương** (河南武元王), là vua thứ 2 nước Tây Tần thời Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông là
**Diêu Hưng** () (366–416), tên tự **Tử Lược** (子略), gọi theo thụy hiệu là **(Hậu) Tần Văn Hoàn Đế** ((後)秦文桓帝), là một hoàng đế của nước Hậu Tần trong lịch sử Trung Quốc. Ông là
thumb|[[Tượng Nhân sư lớn và Quần thể kim tự tháp Giza là những biểu tượng nổi bật nhất của nền văn minh Ai Cập cổ đại]] **Ai Cập cổ đại** là một nền văn minh
**Lã Toản** () (?-401), tên tự **Vĩnh Tự** (永緒), gọi theo thụy hiệu là **(Hậu) Lương Linh Đế** ((後)涼靈帝), là một hoàng đế của nước Hậu Lương trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con
**Đoàn Nghiệp** () (?-401) là vua đầu tiên của nước Bắc Lương trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người Hán, và nguyên là một thái thú của Hậu Lương, nhưng sau khi các tướng
**_Tấn thư_** (chữ Hán phồn thể: 晋書; giản thể: 晋书) là một sách trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (_Nhị thập tứ sử_), do Phòng Huyền Linh và Lý Diên Thọ phụng mệnh Đường
**Thác Bạt Cật Phần** () là một lãnh tụ Sách Đầu bộ Tiên Ti, ông được triều đình Bắc Ngụy truy tôn là thủy tổ thứ 14. Thác Bạt Cật Phần là con của Thác
**Phục bích** (chữ Hán: 復辟), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế
**Lã Thiệu** () (?-400), tên tự **Vĩnh Nghiệp** (永業), gọi theo thụy hiệu là **(Hậu) Lương Ẩn Vương** ((後)涼隱王), là một hoàng đế có thời gian trị vì ngắn ngủi của nước Hậu Lương trong
Các đàn tế trong quần thể di tích Cố đô Huế bao gồm: *Đàn Nam Giao *Đàn Sơn Xuyên *Đàn Xã Tắc *Đàn Tiên Nông *Đàn Âm Hồn Trong các đàn trên chỉ có Đàn
**Hồ Tông Thốc** (胡宗簇; 1324-1404) là một chính trị gia và nhà sử học của Việt Nam vào thời vua Trần Nghệ Tông. Ông làm quan cho triều Trần tới chức Hàn Lâm học sĩ
**Các cuộc xâm lược của Mông Cổ** đã được tiến hành trong suốt thế kỷ 13, kết quả là tạo ra một Đế quốc Mông Cổ vô cùng rộng lớn bao phủ phần lớn châu
Phố cổ Thành Nam ngày nay. Ảnh chụp phố Hàng Sắt. Phố cổ Thành Nam xưa. Ảnh chụp khu phố của Hoa kiều. **Phố cổ Thành Nam** hay **phố cổ Nam Định** là khu vực
**Chiến tranh Xô–Đức 1941–1945** là một cuộc chiến giữa Liên Xô và Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai, trải dài khắp Bắc, Nam và Đông Âu từ ngày 22 tháng 6 năm 1941
**Chiến tranh Minh – Thanh** hoặc **Người Mãn Châu xâm lược Trung Quốc** (1618–1683) là thời kỳ dài của lịch sử khi người Mãn Châu (Nữ Chân) từng bước xâm lấn và chinh phục lãnh
**Lê Thái Tổ** (chữ Hán: 黎太祖 10 tháng 9 năm 1385 – 5 tháng 10 năm 1433), tên thật là **Lê Lợi** (黎利) là một nhà chính trị, nhà lãnh đạo quân sự, người đã
**Chiến dịch Barbarossa** (), còn được gọi là **Cuộc xâm lược của Đức vào Liên Xô** là mật danh của chiến dịch xâm lược Liên Xô do Quân đội Đức Quốc xã tiến hành trong
**Chiến dịch Phan Rang – Xuân Lộc** là chiến dịch giữa Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và Quân lực Việt Nam Cộng hòa trước cửa ngõ Sài Gòn trong Cuộc tổng tấn công
**Chiến dịch Xuân Lộc** hay **Trận Xuân Lộc**, tên đầy đủ là **_Chiến dịch tiến công tuyến phòng thủ Xuân Lộc - Long Khánh_**, là một chiến dịch trong Chiến tranh Việt Nam. Chiến dịch
**Tiên Ti** () là một dân tộc du mục ở phía bắc Trung Quốc, hậu duệ của người Sơn Nhung. Người Sơn Nhung bị liên quân Tề Yên tiêu diệt vào năm 660 TCN buộc
Gạo khi chúng ta bảo quản không đúng cách hay gạo lâu ngày có thể bị mọt, vậy khi gạo bị mọt có ăn được không và xử lý ra sao? Cùng nongdansangtao.vn tìm hiểu
Gạo khi chúng ta bảo quản không đúng cách hay gạo lâu ngày có thể bị mọt, vậy khi gạo bị mọt có ăn được không và xử lý ra sao? Cùng 1shop.vn tìm hiểu
Gạo khi chúng ta bảo quản không đúng cách hay gạo lâu ngày có thể bị mọt, vậy khi gạo bị mọt có ăn được không và xử lý ra sao? Cùng sanphamdacsan.vn tìm hiểu
**Chiến tranh biên giới 1979**, hay thường được gọi là **Chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979**, là một cuộc chiến ngắn nhưng khốc liệt giữa Trung Quốc và Việt Nam, diễn ra
**Trận Lộc Ninh** là trận đánh lớn nhất trong ba trận đánh mở màn của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam (QGP) trong Chiến dịch Đông Nam Bộ 1972 (còn gọi là Chiến dịch
**_Kinh Thi_** () là một bộ tổng tập thơ ca vô danh của Trung Quốc, một trong năm bộ sách kinh điển của Nho giáo. Các bài thơ trong _Kinh Thi_ được sáng tác trong
**Thành Cát Tư Hãn** (; tên thật: **Temüjin**; phiên âm Hán-Việt: **Thiết Mộc Chân**; tháng 8 năm 1227) là người sáng lập và khả hãn đầu tiên của Đế quốc Mông Cổ. Sau khi dành
**Marie-Joseph Paul Yves Roch Gilbert du Motier** (6 tháng 9 năm 1757 – 20 tháng 5 năm 1834), thường được gọi **Hầu tước La Fayette**, là một quân nhân, nhà quý tộc người Pháp từng
**Xe tăng** hay **chiến xa** (Tiếng Anh: _Tank_) thường được gọi tắt là **tăng**, là loại xe chiến đấu bọc thép, được trang bị pháo lớn, di chuyển bằng bánh xích được thiết kế cho
**Chiến dịch Mãn Châu** hay _Chiến dịch tấn công chiến lược Mãn Châu_ (tiếng Nga: _Манчжурская стратегическая наступательная операция_), hay _Cuộc tấn công của Liên Xô vào Mãn Châu_ hay _Chiến tranh chống lại Nhật
**Trần Thái Tông** (chữ Hán: 陳太宗 9 tháng 7 năm 1218 – 5 tháng 5 năm 1277), tên khai sinh là **Trần Cảnh** (陳煚), là vị hoàng đế đầu tiên của Hoàng triều Trần nước
**Tấm Cám** là một câu chuyện cổ tích Việt Nam thuộc thể loại truyện cổ tích thần kì. Dù có nhiều dị bản, câu chuyện này phản ánh những mâu thuẫn trong gia đình, đặc
Nền kinh tế nhà Hán (206 TCN - 220 CN) đã trải qua các thời kỳ thịnh suy thuận theo các thăng trầm trong dòng lịch sử của Trung Hoa cổ đại. Thời kỳ nhà
**Nhà Trần** (chữ Nôm: 茹陳, chữ Hán: 陳朝, Hán Việt: _Trần triều_) là một triều đại quân chủ cai trị nước Đại Việt từ năm 1226 đến năm 1400. Đây là triều đại được lưu
**Nguyễn Phúc Thuần** (1754 - 1777, ở ngôi 1765 - 1777), hay **Nguyễn Duệ Tông**, **Định Vương** còn có tên khác là **Nguyễn Phúc Hân**, là người cai trị thứ 9 của chính quyền Chúa
**Đàn Tiên Nông** là một đàn tế xây dựng từ thời Minh Mạng (1828) giữa hai phường Hậu Sinh và An Trạch, nay là phường Tây Lộc ở phía Tây Bắc trong kinh thành Huế.
**_Cái đêm hôm ấy... đêm gì?_** Năm 1986, xã hội Việt Nam bảo thủ và trì trệ, người dân xếp hàng mua báo _Nhân Dân_ với loạt bài viết _Những việc cần làm ngay_ của
**Trận thành Gia định** hay Trận Gia Định là một trận chiến diễn ra vào rạng sáng ngày 17 tháng hai năm 1859, giữa liên quân Pháp và Tây Ban Nha với quân đội vương
**Bắc Ngụy Thái Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏太武帝; 408 – 11 tháng 3, 452), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông thường được nhìn nhận
**Chúa Nguyễn** (chữ Nôm: ; chữ Hán: / **Nguyễn vương**) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo
**Huế** là một trong sáu thành phố trực thuộc trung ương và là thành phố di sản của Việt Nam. Thành phố là một trong các trung tâm văn hóa, y tế và giáo dục
**Chiến dịch Nguyễn Huệ** là chiến dịch quân sự do Quân Giải phóng Miền Nam (QGP) tiến hành năm 1972, trong Chiến tranh Việt Nam, tại miền Đông Nam Bộ. Đây là một trong ba