✨Thiên hoàng Kōken

Thiên hoàng Kōken

là thiên hoàng thứ 46 và cũng là - thiên hoàng thứ 48 theo danh sách thiên hoàng truyền thống của Nhật Bản. Bà là nữ Thiên hoàng thứ hai lên ngôi hai lần, sau Nữ Thiên hoàng Kōgyoku. Triều đại Kōken đánh dấu sự rối loạn ngày càng cao độ trong triều đình. Đặc biệt, sự kiện nhà sư Dōkyō được Thiên hoàng phong làm quốc sư khuynh đảo Thiên hoàng, âm mưu của ông ta nhằm cướp ngôi vua làm chính quyền trung ương ngày càng suy sụp hơn. Trong lịch sử Nhật Bản, Kōken / Shotoku là người thứ sáu trong số tám phụ nữ đảm nhận vai trò là Thiên hoàng. Năm quốc vương nữ trước Kōken / Shotoku là (a) Suiko, (b) Kōgyoku / Saimei, (c) Jitō, (d) Gemmei, và (e) Genshō; và hai người phụ nữ trị vì sau Kōken / Shotoku là (f) Meishō, và (g) Go-Sakuramachi.

Tường thuật truyền thống

Tên thật của bà là công chúa Abe, con gái thứ hai của Thiên hoàng Shōmu và hoàng hậu Komyo (tức bà Fujiwara Kōmyōko). Thuở thiếu thời, bà sống trong sự nuôi dưỡng từ mẹ là người họ Fujiwara nên chịu ảnh hưởng khá nhiều.

Trị vì

Triều đại Thiên hoàng Kōken

Ngày 19/08/749, Thiên hoàng Shōmu thoái vị và công chúa Abe (con gái ông) lên ngôi, lấy hiệu là Kōken. Mặc dù đã lên ngôi, nhưng thực quyền vẫn nằm trong tay mẹ là Hoàng thái hậu Kōmyō (tức bà Fujiwara Kōmyôko) và người cháu trai của bà ta là Fujiwara no Nakamaro (con trai Muchimaro thuộc Nanke). Dựa trên uy tín của mình, Kômyô bổ nhiệm Nakamaro vào chức trưởng quan của Shibi chuudai (Tử vi trung đài) một nha sở mới được hai bác cháu đặt ra để lo về những việc kề cận thiết thân của Hoàng thái hậu. Từ năm 749, vua Bột Hải Văn Vương của vương quốc Bột Hải tăng cường ngoại giao và thương mại với Nhật Bản hòng gây sức ép với địch thủ Tân La ở mặt Nam. Người Bột Hải tự hào là người thừa kế của Cao Câu Ly. Các thư tín gửi cho Thiên hoàng Nhật Bản chỉ ra rằng các vị vua Bột Hải tự nhận mình là "vua Cao Câu Ly".

Năm 753 Kōken phái sứ giả sang Tân La (đời vua Tân La Cảnh Đức Vương) để bang giao. Tuy nhiên vua Tân La Cảnh Đức Vương lại đối xử kiêu ngạo với các sứ giả Nhật Bản.

Năm 757, Tachibana no Naramaro (con trai của Moroe) thấy quyền lực của Fujiwara no Nakamaro ngày càng lớn, nên quyết định tụ tập tất cả các thành phần hào tộc chống đối để trừ khử Nakamaro. Thế nhưng âm mưu của ông bị cáo giác và Tachibana no Naramaro bị bắt giam rồi chết trong ngục.

Trong thời gian bà trị vì, vì muốn thúc đẩy Phật giáo thành một tôn giáo của quốc gia và làm tăng thêm thân thế của hoàng tộc, Thiên hoàng đã triệu nhiều tu sĩ Phật giáo vào triều đình. Trong số đó, nhà sư Dōkyō được bà lưu tâm nhiều nhất.

Năm 758 Kōken lại phái sứ giả sang Tân La (đời vua Tân La Cảnh Đức Vương) để bang giao. Lần này vua Tân La Cảnh Đức Vương lại từ chối gặp họ. Vua Tân La Cảnh Đức Vương được cho là đã xúc phạm Nhật Bản hai lần.

Ngày 7/12/758, Kōken theo lời đề nghị của Nakamaro đã thoái vị và nhường ngôi cho con nuôi là Thiên hoàng Junnin, lên ngôi Thái thượng hoàng.

Triều đại Thiên hoàng Shōtoku

Ngày 26/1/765, thái thượng hoàng truất ngôi Junnin và lên ngôi lần thứ hai, lần này lấy hiệu là Shōtoku. Thời Shōtoku, nhà sư được đặt vào một chức vụ đặc biệt tên là , có quyền lực của một vị tể tướng kiêm giáo chủ (Hōō = pháp vương). Sau đó, bà lấy cớ là thần ở đền Usa Hachiman Jinguu thác lời mà mà mưu tính đưa cả Dōkyō lên ngôi Thiên hoàng. Nhưng do nhóm các đại thần như Wake no Kiyomaro hiệp lực ngăn cản cho nên ước vọng phi lý đó mới không thành. Từ năm 765, vua Bột Hải Văn Vương của vương quốc Bột Hải cũng tăng cường ngoại giao và thương mại với Nhật Bản hòng gây sức ép với địch thủ Tân La ở mặt Nam. Người Bột Hải tự hào là người thừa kế của Cao Câu Ly. Các thư tín gửi cho Thiên hoàng Nhật Bản chỉ ra rằng các vị vua Bột Hải tự nhận mình là "vua Cao Câu Ly".

Năm 770, Thiên hoàng Shōtoku cho khắc in bộ kinh Phật - . Bản in vào năm 770 này là một trong những ấn phẩm được xuất bản sớm nhất trên thế giới. Bà cũng cho xây dựng ngôi chùa Otagi Nenbutsu-ji, nằm ở khu phố Arashiyama thuộc Kyoto.

Ngày 28/8/770, nữ Thiên hoàng Shōtoku qua đời lúc 57 tuổi. Người kế vị bà là cháu trai (gọi Thiên hoàng Tenji bằng ông nội) lên ngôi, hiệu là Thiên hoàng Kōnin.

Niên hiệu

Những năm của triều đại Kōken

  • Tenpyō-kanpō (749)
  • Tenpyō-shōhō (749-757)
  • Tenpyō-hōji (757-765)

Những năm của triều đại Shotoku

  • Tenpyō-hōji (757-765)
  • Tenpyō-jingo (765-767)
  • Jingo-keiun (767-770)

Kugyō

Thời Koken

  • Taihō, Emi no Oshikatsu (trước đây là Fujiwara no Nakamaro).
  • Thái Chính đại thần
  • Tả đại thần: Tachibana no Moroe (trước đây là Katsuragi -o, Hoàng tử Katsuragi) (nửa người anh em của Hoàng hậu Kōmyō).
  • Hữu đại thần: Fujiwara no Toyonari (con trai đầu tiên của Fujiwara no Muchimaro).
  • Hữu đại thần: Fujiwara no Nakamaro (con trai thứ hai của Fujiwara no Muchimaro).
  • Nội đại thần
  • Đại nạp ngôn

Thời Shotoku

  • Thái Chính đại thần: Dōkyō.
  • Tả đại thần
  • Hữu đại thần: Kibi Makibi.
  • Nội đại thần
  • Đại nạp ngôn: Fujiwara Matate.
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
là thiên hoàng thứ 46 và cũng là - thiên hoàng thứ 48 theo danh sách thiên hoàng truyền thống của Nhật Bản. Bà là nữ Thiên hoàng thứ hai lên ngôi hai lần, sau
là thiên hoàng thứ 47 của Nhật Bản theo truyền thống thứ tự kế thừa ngôi vua. Triều đại của ông kéo dài những năm 758 đến 764 ## Tường thuật truyền thống Ông có
thumb|[[Akihito|Thiên hoàng Akihito - vị Thái thượng Thiên hoàng thứ 60 của Nhật Bản.]] , gọi tắt là , là tôn hiệu Thái thượng hoàng của các Thiên hoàng - những vị quân chủ Nhật
**Thánh Vũ Thiên hoàng** (聖武天皇, _Shōmu- tennō_, 701 - 4 tháng 6, 756) là Thiên hoàng thứ 45 của Nhật Bản theo truyền thống thứ tự kế thừa ngôi vua Nhật. Triều Shōmu kéo dài
là Thiên hoàng thứ 109 của Nhật Bản theo danh sách kế thừa truyền thống. Triều đại của bà kéo dài từ 1629-1643 Trong lịch sử Nhật Bản, Meishō là người thứ bảy trong số
là Thiên hoàng thứ 117 của Nhật Bản theo danh sách kế thừa truyền thống. Triều Hậu Anh Đinh kéo dài từ năm 1762 đến năm 1771. Trong lịch sử của Nhật Bản, Hậu Anh
là thiên hoàng thứ 44 của Nhật Bản theo thứ tự kế thừa truyền thống. Bà là người đương vị nữ hoàng trong lịch sử của Nhật Bản đã thừa hưởng danh hiệu của mình
còn gọi là hay là tước hiệu của người được tôn là Hoàng đế ở Nhật Bản. Nhiều sách báo ở Việt Nam gọi là _Nhật Hoàng_ (日皇), giới truyền thông Anh ngữ gọi người
còn được gọi là Thiên hoàng Genmyō, là Thiên hoàng thứ 43 của Nhật Bản theo truyền thống thứ tự kế vị ngôi vua. Triều đại Genmei kéo dài từ ngày 18 tháng 8 năm
**Nữ hoàng** (chữ Hán: 女皇, tiếng Anh: _Empress Regnant_), cũng được gọi là **Nữ đế** (女帝) hay **Nữ hoàng đế** (女皇帝), **bà hoàng**, **bà chúa** là một danh từ dùng để chỉ người phụ nữ
Tại Nhật Bản, là tước vị được dành cho chính thất của Thiên hoàng, khi một người phụ nữ ngồi vào ngôi vị Nhật hoàng, bà ta sẽ được gọi là hay . Nhật Bản
thế=|nhỏ|Hoàng hậu Quang Minh được vẽ bởi Ryūryūkyo Shinsai nhỏ|Một ví dụ về thư pháp của Hoàng hậu Kōmyō và chữ ký của bà - _Gakki-ron_ (khoảng năm 756).(701 – 23 tháng 7 năm 760),
Dưới đây là danh sách ghi nhận về những cuộc nhường ngôi trong lịch sử Nhật Bản, trong đó có Vương quốc Lưu Cầu: ## Tự nguyện nhường ngôi ### Nhường ngôi nhưng vẫn giữ
Nhật Bản là quốc gia có số lượng Phật tử chiếm 34,9% dân số, có khoảng 377,000 tăng sĩ (2014). Có ngôi chùa gỗ cổ nhất thế giới Hōryūji (Pháp Long Tự). nhỏ|Chùa [[Yakushiji ở
, còn được gọi là Biến loạn Emi, là một cuộc đối đầu quân sự vào thời kỳ Nara trong một khoảng thời gian ngắn ngủi và cuối cùng phải chuốc lấy thất bại do
là công khanh (_kuge_), triều thần, và chính khách thời Nara. Ông là con trai của _sadaijin_ (Tả đại thần) Tachibana no Moroe và là tộc trưởng thứ hai của gia tộc Tachibana. Ông được
**Bột Hải** (, , ) là một vương quốc đa sắc tộc cổ của Triều Tiên tồn tại từ năm 698 đến 926 được lập ra bởi Đại Tộ Vinh (_Tae Choyŏng_) từ sau khi
**Văn Vương** (trị vì 737 – 793) có tên là **Đại Khâm Mậu** (대흠무, 大祚榮, Dae Heum-mu), là vị vua thứ ba và có thời gian trị vì dài nhất của vương quốc Bột Hải.
**Phục bích** (chữ Hán: 復辟), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế
là một vị thân vương và công khanh (_kuge_) phụng sự triều đình của Thiên hoàng Shōmu và Nữ Thiên hoàng Kōken. ## Tiểu sử Nhà Tachibana được xem là thuộc về hoàng tộc vì
**Cảnh Đức Vương** (trị vì 742-765) là người trị vì thứ 35 của vương quốc Tân La. Ngày nay, ông được biết đến nhiều với các nỗ lực nhằm khuyến khích Phật giáo. Ông có
, còn được gọi là , là một sự kiện xảy ra vào đầu thời kỳ Heian. Vào năm 810, Thiên hoàng Saga đã đối đầu với Thái thượng Thiên hoàng Heizei, nhưng phe của
**Dương Quý phi** (chữ Hán: 楊貴妃, 719 – 756), còn gọi là **Dương Ngọc Hoàn** (楊玉環) hay **Dương Thái Chân** (楊太真), là một phi tần rất được sủng ái của Đường Huyền Tông Lý Long
**Đại Nguyên Nghĩa** (mất năm 794, trị vì 793 – 794) là vị quốc vương thứ tư của Vương quốc Bột Hải. Đại Nguyên Nghĩa (Dae Won-ui) là vương tử thứ 4 của Bột Hải
**Cao Trường Cung** (chữ Hán: 高長恭, 541? – 573) là tướng lãnh, hoàng thân nhà Bắc Tề, mỹ nam nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc. Dân gian thường gọi ông với vương hiệu là
**_Tanabata_** (tiếng Nhật: hoặc , từ Hán Việt: _Thất Tịch_, hay có thể hiểu là _buổi tối mùng bảy_), còn được gọi là Lễ hội Sao ( _Hoshi matsuri_), là một lễ hội Nhật Bản
**Thời kỳ Nara** (tiếng Nhật: 奈良時代 |_Nara-jidai_, _Nại Lương thời đại_) của lịch sử Nhật Bản kéo dài từ năm 710 đến năm 794. Thiên hoàng Gemmei (元明天皇 _Gemmei Tennō_, _Nguyên Minh Thiên Hoàng_) đặt
nhỏ| [[Torii Kiyomasu, Ichikawa Danjūrō I trong vai Takenuki Gorō. Bản họa kịch sĩ nổi tiếng đầu thế kỷ 18 của trường Torii ]] nhỏ| , bởi [[Hokusai Bảo tàng nghệ thuật Metropolitan ]] thế=|nhỏ|