✨Thiên hoàng Genmei

Thiên hoàng Genmei

còn được gọi là Thiên hoàng Genmyō, là Thiên hoàng thứ 43 của Nhật Bản theo truyền thống thứ tự kế vị ngôi vua.

Triều đại Genmei kéo dài từ ngày 18 tháng 8 năm 707 đến ngày 3 tháng 10 năm 715

Trong lịch sử của Nhật Bản, Genmei là người thứ tư trong tám phụ nữ đảm nhận vai trò của đương vị Thiên hoàng. Ba vị vua nữ trước Genmei là Suiko, Kōgyoku / Saimei, và Jitō. Bốn phụ nữ sẽ trị vì sau khi Genmei là Genshō, Kōken / Shotoku, Meishō và Go-Sakuramachi.

Tường thuật truyền thống

Genmei tên thật là Abe -hime, là con gái thứ tư của Thiên hoàng Tenji. Bà có một chị gái đang trị vì trước đó là Thiên hoàng Jito. Mẹ bà, hoàng hậu Mei-no-Iratsume (còn được gọi là Soga -hime), là con gái của hữu đại thần Soga-no-Kura-no-Yamada-no-Ishikawa-no-Maro (còn được gọi là Soga Yamada-no-O Omi).

Bà kết hôn (nyōgo) với Hoàng thái tử Kusakabe no Miko, con trai của Thiên hoàng Tenmu và Nữ Thiên hoàng Jitō.

Trị vì

Các sự kiện trong thời kỳ của Thiên hoàng Gemmei

Triều đại của Gemmei đánh dấu những hoạt động rất mạnh mẽ của bà nhằm củng cố, phát triển nhà nước phong kiến Nhật Bản.

Kế thừa bố chồng là Thiên hoàng Tenmu về cải cách tiền tệ, Thiên hoàng Gemmei đã cải tiến và cho ban hành đồng tiền Wadō-kaihō - đồng tiền đầu tiên của nhà nước phong kiến Nhật Bản độc lập. Trước tiên vào cuối năm Keiun thứ tư (707), bà đã cho thần dân thu thập nhiều mẫu tiền đồng rất nhiều ở tỉnh Chichibu (nay thuộc tỉnh Musashi, Nhật Bản) về để chế tạo, đúc thành tiền. Đầu năm 708, bà đổi niên hiệu thành Wadō (Hòa Đồng). Cũng trong năm này, vào ngày 29/8/708, đồng tiền chính thức của Nhật Bản được Thiên hoàng Gemmei ban hành, gọi là đồng Wadō-kaihō (Hòa đồng Khai Bảo), đặt theo niên hiệu của bà. Chữ Wadō nghĩa là "đồng Nhật Bản" và từ kaihō nghĩa là "tệ". Các Wadō-kaihō có đặc điểm giống như đồng tiền của Trung Quốc (đồng Kaigentsūhō, ban hành năm 621 thời vua Đường Cao Tổ), với đường kính 2,4 cm và trọng lượng 3,75 g. Đồng tiền này có hai loại: bằng bạc và bằng đồng.

Tháng 3/708, Fuijwara no Fuhito được Thiên hoàng cử làm hữu đại thần. Isonokami no Maro là tả đại thần.

Tháng 3/709 (niên hiệu Wadō thứ 2): Một cuộc nổi dậy của nông dân chống lại chính quyền ở hai tỉnh Mutsu và Echigo. Quân đội đã được cử đi kịp thời để khuất phục được cuộc nổi dậy.

Tháng 5/709 (niên hiệu Wadō thứ 2): Đại sứ đến từ Silla (Tân La, Triều Tiên) đưa ra đề nghị triều cống Nhật Bản. Ông đã đến thăm Fujiwara no Fuhito để thuyết phục ông này sang thăm Triều Tiên.

Tháng 3/710 (niên hiệu Wadō thứ 3): Gemmei dời dô về thành phố Nara (Nại Lương). Việc dời đô này là ý muốn của Thiên hoàng Monmu, nhưng cái chết của ông.

Năm 712, Thiên hoàng tách tỉnh Mutsu ra khỏi tỉnh Dewa.

Tháng 3/713 (Wadō thứ 6): tỉnh Tamba đã được tách ra từ tỉnh Tango; tỉnh Mimasaka được tách ra từ tỉnh Bizen; và tỉnh Hyuga được tách ra từ tỉnh Osumi , chị gái của Thiên hoàng yểu mệnh Mommu.

Thơ ca

Man'yōshū gồm một loạt các bài thơ viết vào thời Wadō nguyên niên (708) – tập thơ này gồm nhiều bức thư của các phụ nữ cung đình gửi nhà vua.

Nguyên văn tiếng Nhật:

私たちの偉大な王は軍のシールドを維持するために、異なっています

  • 天皇Gemmei

への返信です。

私の最高のロイヤル・O、無関心で

私はここにいませんよ、

先祖の神々が命を授けI、

親族の彼の次の?

(tạm dịch):

"Đại vương của chúng ta phải là khác nhau, lá chắn để giữ quân đội

– Thiên hoàng Gemmei

Đáp lại:

Hãy là không quan tâm, hỡi đại vương tối cao của tôi

Tôi không ở đây,

Tôi, người mà các vị thần tổ tiên ban cho cuộc sống,

Tiếp theo cho thân nhân mình?"

– Minabe- hime

Kugyō

  • Daijō-daijin, Prince Hozumi. Sau khi ông chết, Gemmei lên thay thế
  • Sadaijin, Isonokami no Maro (石上麻呂). [5] 708–717
  • Udaijin, Fujiwara no Fuhito (藤原不比等). [5] 708–720
  • Naidaijin
  • Dainagon

Nengō

  • Keiun (704-708)
  • Wadō (708-715)
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
còn được gọi là Thiên hoàng Genmyō, là Thiên hoàng thứ 43 của Nhật Bản theo truyền thống thứ tự kế vị ngôi vua. Triều đại Genmei kéo dài từ ngày 18 tháng 8 năm
**Thủ đô của Nhật Bản **trên thực tế hiện tại là Tokyo, với hoàng cung của Thiên Hoàng và văn phòng chính phủ Nhật Bản và nhiều tổ chức chính phủ. Cùng với đó thì
**Thơ Đường luật** hay **Thơ luật Đường** là thể thơ Đường cách luật xuất hiện từ thời nhà Đường ở Trung Quốc. Là một trong những dạng thơ Đường bên cạnh thơ cổ phong (cổ