✨Nghệ thuật in mộc bản Nhật Bản

Nghệ thuật in mộc bản Nhật Bản

nhỏ| [[Torii Kiyomasu, Ichikawa Danjūrō I trong vai Takenuki Gorō. Bản họa kịch sĩ nổi tiếng đầu thế kỷ 18 của trường Torii ]] nhỏ| , bởi [[Hokusai Bảo tàng nghệ thuật Metropolitan ]] thế=|nhỏ| [[Phối cảnh kiểu phương Tây (uki-e) và tăng cường sử dụng màu in là một trong những cách tân mà Okumura Masanobu là người tiên phong trong đó.
Buổi Tối Mát mẻ bên Cầu Ryōgoku, ]] Mộc bản họa ( mokuhanga, tức là "Vẽ mộc bản") là một loại hình được biết đến chủ yếu qua những bản họa nghệ thuật ukiyo-e, đồng thời cũng được áp dụng trong việc in sách. Kỹ thuật này được phổ biến rộng rãi tại Nhật Bản trong thời kỳ Edo (1603–1868) và cũng mang một số nét tương đồng so với in khắc gỗ của phương Tây, tuy nhiên kỹ thuật mokuhanga sử dụng mực gốc nước - trái ngược với bản khắc gỗ phương Tây, thường sử dụng mực gốc dầu. Các loại mực gốc nước của Nhật Bản cung cấp nhiều màu sắc sống động, tráng men và trong suốt.

Lịch sử

Năm 764, Hoàng hậu Kōken đã cho xây dựng một triệu ngôi chùa nhỏ bằng gỗ, mỗi ngôi chùa đều có một mộc bản khắc kinh Phật (Hyakumantō Darani). Chúng được phân phát khắp các ngôi đền trên khắp đất nước như một lời cảm tạ đã trấn áp được Biến loạn Emi năm 764. Đây là những ví dụ sớm nhất về in mộc bản được biết đến, hoặc được ghi lại, ở Nhật Bản.

Vào thế kỷ thứ mười một, các ngôi chùa Phật giáo ở Nhật Bản đã cho xuất bản sách in về kinh phật, mạn-đà-la, cùng các tài liệu và hình ảnh Phật giáo khác. Trong nhiều thế kỷ, việc in ấn chủ yếu bị giới hạn trong lĩnh vực Phật giáo, vì nó quá đắt để sản xuất hàng loạt, và chưa được giới tri thức tiếp nhận trên thị trường. Tuy nhiên, một bộ quạt trang trọng vào cuối thời Heian (thế kỷ 12) gồm các tranh vẽ và kinh Phật, màu mực của chúng đã bị phai, lộ ra phần vẽ dưới được in khắc gỗ.

Cuốn sách thế tục đầu tiên được viết ở Nhật Bản vào năm 1781, là Setsuyō-shū, một từ điển Hán-Nhật gồm hai tập. Các tu sĩ Dòng Tên sử dụng một loại máy in di động ở Nagasaki từ năm 1590, là thiết bị do quân đội của Toyotomi Hideyoshi mang về từ Hàn Quốc vào năm 1593, chúng đã có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của ngành in ấn thời gian này. Bốn năm sau, Tokugawa Ieyasu trước khi trở thành shōgun, đã thúc đẩy tạo ra loại in di động bản địa đầu tiên, làm chủ yếu từ gỗ thay vì kim loại. Ông giám sát việc tạo ra 100.000 mẫu chữ, dùng để in một số văn bản chính trị và lịch sử. Khi là shōgun, Ieyasu tiếp tục thúc đẩy việc học chữ và kiến thức, góp phần cho sự phát triển của tầng lớp tri thức ở thành thị bấy giờ.

Tuy nhiên, ngành in ấn thời điểm này không bị phụ thuộc bởi Mạc phủ. Các nhà in tư nhân xuất hiện ở Kyoto vào đầu thế kỷ 17, trong đó Toyotomi Hideyori, một đối thủ chính trị quyền lực của Ieyasu, cũng góp phần vào sự phát triển và phổ biến của loại hình này. Một ấn bản của cuốn Luận ngữ Khổng Tử được xuất bản vào năm 1598, sử dụng mô hình in di động của Hàn Quốc, theo lệnh của Thiên hoàng Go-Yōzei. Đây cũng là tác phẩm tài liệu lâu đời nhất về kiểu in di động tại Nhật Bản còn tồn tại đến ngày nay. Tuy nhiên, bất chấp sự phổ biến của loại in di động, những người thợ thủ công đã sớm nhận ra rằng với mộc bản, các tác phẩm hành thư Nhật Bản có được chất lượng tốt hơn. Cho đến năm 1640 mộc bản được sử dụng cho hầu hết các loại hình in ấn.

Phương thức này này nhanh chóng trở nên phổ biến và được sử dụng để sản xuất các bản in cũng như sách với giá thành phải chăng. Những người tiên phong trong việc áp dụng phương pháp này để tạo ra các cuốn sách nghệ thuật, trước khi sản xuất hàng loạt cho thị trường phổ thông, là Honami Kōetsu và Suminokura Soan. Tại xưởng của họ ở Saga, hai người tạo ra một số phiên bản khắc gỗ của các tác phẩm văn học kinh điển Nhật Bản, gồm văn bản và hình ảnh, về cơ bản là chuyển đổi từ sách cuộn sang sách in và sao chép chúng để mở rộng nhu cầu tiêu thụ. Những cuốn sách này, ngày nay được gọi là Kōetsu Books, Suminokura Books, hoặc Saga Books, được coi là những bản sao đầu tiên và cũng là hay nhất của nhiều câu chuyện cổ tích; Trong số đó cuốn sách Truyện kể Ise của Saga (Ise monogatari), in năm 1608, đặc biệt nổi tiếng.

Việc in khắc gỗ, mặc dù tốn nhiều thời gian và đắt đỏ hơn so với các phương pháp về sau, nhưng chí ít vẫn hơn những phương pháp truyền thống như viết tay; cũng từ đây Nhật Bản bắt đầu nhận ra giá trị sản xuất hàng loạt của văn học. Trong khi sách của Saga được in trên giấy đắt tiền, và sử dụng nhiều cách tô điểm khác nhau, được in đặc biệt cho một bộ phận nhỏ những người sành văn học, các nhà in khác ở Kyoto đã nhanh chóng áp dụng kỹ thuật này để xuất bản sách số lượng lớn với chi phí thấp, giúp phổ biến trong thị trường tiêu dùng hơn. Nội dung của những cuốn sách này rất đa dạng, bao gồm hướng dẫn du hành, hướng dẫn tư vấn, kibyōshi (tiểu thuyết châm biếm), sharebon (sách về văn hóa đô thị), sách nghệ thuật và kịch bản cho nhà hát jōruri (múa rối). Thông thường mỗi thể loại nhất định đều có một phong cách viết riêng là tiêu chuẩn cho thể loại đó. Ví dụ, phong cách thư pháp cá nhân được sử dụng làm tiêu chuẩn trong biên kịch múa rối (yukahon).

Nhiều nhà xuất bản mọc lên và nhanh chóng lớn mạnh, xuất bản cả sách và bản họa đơn. Một trong số những người nổi tiếng và thành công nhất là Tsuta-ya. Quyền sở hữu của một nhà xuất bản đối với các mộc bản được sử dụng để in văn bản hay hình ảnh nhất định được coi là tương đương gần với khái niệm "bản quyền" vào thời điểm này. Các nhà xuất bản hoặc cá nhân có thể mua mộc bản từ nhau, do đó việc chuyển giao này cần những giấy phép nhất định, nhưng ngoài quyền sở hữu (đại diện cho một vật thể như mộc bản), vẫn chưa có khái niệm pháp lý nào về quyền sở hữu lý tưởng. Các vở kịch được đón nhận bởi những nhà hát cạnh tranh nhau, hoặc được các nhà bán buôn tái bản, các yếu tố như nhân vật hoặc cốt truyện có thể được điều chỉnh khác nhau; hoạt động này được coi là hợp pháp và thường xuyên diễn ra vào thời điểm đó.

Sau sự suy tàn của ukiyo-e và sự ra đời của mô hình in di động cùng các công nghệ khác, in khắc gỗ vẫn tiếp tục mộ được coi là một phương pháp in văn bản cũng như sản xuất nghệ thuật, cả trong các loại hình nghệ thuật truyền thống như ukiyo-e và nhiều loại hình cấp tiến hơn như nghệ thuật hiện đại du nhập từ phương Tây. Các học viện như "Adachi Institute of Woodblock Prints" và "Takezasado" tiếp tục sản xuất các bản họa ukiyo-e với chất liệu và phương pháp tương tự như trước đây.

Kỹ thuật

nhỏ| Bản họa [[Aizuri-e: Đền Kinryuzan ở Asakusa trong loạt tác phẩm Những Thắng Cảnh ở thủ đô phía Đông của Hiroshige II ]] Kỹ thuật in chữ và hình ảnh nhìn chung tương tự nhau. Vẫn có thể phân biệt rõ chúng qua khối lượng mộc bản được tạo ra khi làm việc với văn bản (gồm nhiều trang cho một tác phẩm) khác với hình ảnh yêu cầu những màu sắc phức tạp. Hình ảnh trong sách hầu như luôn ở dạng đơn sắc (chỉ gồm mực đen), và trong một thời gian, các bản họa nghệ thuật cũng đơn sắc hoặc chỉ được thực hiện với hai hoặc ba màu.

Trước tiên, văn bản hoặc hình ảnh được vẽ trên giấy washi mỏng (giấy Nhật Bản), sau đó được dán úp mặt xuống một tấm gỗ có vân sát nhau, thường là gỗ anh đào. Dầu có thể được sử dụng để làm cho các đường nét của hình ảnh rõ ràng hơn. Từ những đường nét trên giấy các thợ khắc sẽ rạch phác thảo, được thực hiện dọc hai bên của mỗi đường nét hoặc họa tiết. Gỗ sau đó được đục dựa trên các vết rạch này. Khối gỗ được đánh mực bằng một hoặc nhiều cọ. Một công cụ cầm tay gọi là baren có bề mặt phẳng được dùng để áp mực lên giấy, bằng cách ép giấy vào mộc bản đã được in sẵn mực. Một baren truyền thống gồm ba phần, bề mặt dưới lá tre được xoắn lại thành một sợi dây có độ dày khác nhau, các nốt sần trên lá cũng nơi tạo áp lực cho bản in. Sợi dây này được cuốn gọn trong một chiếc đĩa gọi là "ategawa" làm từ nhiều lớp giấy rất mỏng dán lại với nhau. Tất cả được bọc trong một lá tre đã được làm ẩm, hai đầu được buộc lại để tạo ra tay cầm. Các các nhà in hiện đại đã có những điều chỉnh với công cụ này, ngày nay các baren được làm bằng nhôm với các ổ bi để tạo áp lực tốt hơn; đồng thời cũng có những phiên bản làm từ nhựa, ít tốn kém hơn. Mặc dù các bản in thời đầu chỉ đơn giản là một màu, với các màu được bổ sung bằng tay, một phương pháp khắc được phát triển sớm là "kento", dùng để đánh dấu nơi đặt giấy cần in. Tờ washi cần in được đặt vào kento, sau đó dần hạ xuống bản khắc gỗ. Phương pháp này đặc biệt hữu ích với các bản họa đa bắc, yêu cầu màu được áp với độ chính xác cao đồng nhất cùng với các lớp mực trước đó.

Trong văn bản hầu như luôn là đơn sắc, cũng như các minh họa trong sách, sự phát triển và phổ biến của ukiyo-e đã kéo theo nhu cầu sử dụng nhiều sắc tố hơn cùng với đó là độ phức tạp của kỹ thuật ngày càng tăng. Sự phát triển này có thể phân ra các giai đoạn sau:

  • —in đơn sắc chỉ sử dụng mực đen.
  • —các chi tiết hoặc điểm nổi bật được thêm mực đỏ bằng tay, sau khi in.
  • —màu cam được làm nổi bật bằng cách sử dụng sắc tố đỏ được gọi là tan.
  • , , cùng các thể loại tương tự, trong đó bản họa hầu như chỉ sử dụng một màu duy nhất.
  • —một phương pháp làm đặc mực bằng keo, tạo nổi cho hình ảnh. Các nhà in thường sử dụng vàng, mica và các chất khác để nâng cao chất lượng cho bản họa. Urushi-e cũng được coi là kỹ thuật tương tự như trong tranh sơn mài.
  • —một phương pháp sử dụng nhiều mộc bản cho mỗi phần riêng biệt của bản họa, cùng với một màu sắc duy nhất. Khi kết hợp chúng lại có thể tạo thành những hình ảnh phức tạp và chi tiết. Phương pháp khắc đánh dấu kentō () được dùng để đảm bảo tính đồng nhất giữa các mộc bản với nhau.

Các trường phái và phong trào

nhỏ|883x883px| "Shōki zu" (Zhong Kui), của [[Okumura Masanobu, 1741–1751. Ví dụ về định dạng tranh cột, 69,2 x 10,1 cm. ]] Trong in ấn cũng có những đặc điểm tương tự các môn nghệ thuật khác tại Nhật Bản, các trường phái và phong trào riêng được tạo ra xuyên suốt lịch sử phát triển. Đáng chú ý nhất (xem thêm các trường phái nghệ sĩ ukiyo-e) có thể kể đến là:

  • Trường phái Torii, từ 1700
  • Trường phái Kaigetsudō, từ 1700–1714
  • Trường phái Katsukawa, từ khoảng những năm 1720, nghệ sĩ nổi bật trong đó là Shunsho và Shuntei
  • Trường phái Kawamata, từ khoảng năm 1725, gồm các nghệ sĩ như Suzuki Harunobu và Koryusai
  • Trường phái Hokusai, từ khoảng năm 1786, gồm các nghệ sĩ như Hokusai, Hokuei và Gakutei
  • Trường phái Kitagawa, từ khoảng năm 1794, gồm các nghệ sĩ như Utamaro I, Kikumaro I và II
  • Trường phái Utagawa, từ năm 1842, gồm các nghệ sĩ như Kunisada và Hiroshige
  • Phong trào Sōsaku-hanga "Sáng tạo bản họa", từ năm 1904
  • Phong trào Shin-hanga "Tân bản họa", từ năm 1915, tiêu biểu như Hasui Kawase và Hiroshi Yoshida

Các nghệ sĩ khác, chẳng hạn như Sharaku, Kabukidō Enkyō, Sugakudo và Shibata Zesshin, được coi là nghệ sĩ độc lập, không theo học trường phái nào và có lẽ, không hưởng lợi nhuận từ những nhà xuất bản, vì thường thì những nhà xuất bản ít có xu hướng hợp tác với những nghệ sĩ không chính quy. Tuy nhiên, nhiều tác phẩm trong đó lại chứng minh ngược lại. Các bản họa thời kì đầu của họ đều được coi là nổi tiếng nhất, có giá trị và hiếm nhất, trong thể loại ukiyo-e. Ngoài ra, có thể thấy chúng được in rất tốt, sử dụng mica đắt tiền, mực cao cấp và giấy chất lượng cao nhất, đều là những kỹ thuật tốn kém.

Kích thước in

Sau đây là các kích thước in phổ biến trong thời kỳ Tokugawa. Kích thước thay đổi tùy theo từng thời kỳ và những kích thước dưới đây là gần đúng; được đưa ra dựa trên kích thước giấy trước khi in và được cắt sau khi in.

Các thuật ngữ tiếng Nhật cho định dạng tranh dọc (chân dung) và ngang (phong cảnh) là tate-e (立て絵) và yoko-e (横絵).

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Công nghệ dòng nhu cầu** (**DFT**) là một chiến lược để xác định và triển khai các quy trình kinh doanh theo một luồng, được thúc đẩy để đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
**Bản đồ học** hay **Đồ bản học** là khoa học nghiên cứu và phản ánh sự phân bố không gian, sự phối hợp mối liên hệ giữa các đối tượng, hiện tượng tự nhiên và
nhỏ| [[Torii Kiyomasu, Ichikawa Danjūrō I trong vai Takenuki Gorō. Bản họa kịch sĩ nổi tiếng đầu thế kỷ 18 của trường Torii ]] nhỏ| , bởi [[Hokusai Bảo tàng nghệ thuật Metropolitan ]] thế=|nhỏ|
**In 3D Xây dựng** (c3Dp) hoặc **In Xây dựng 3D (3DCP)** đề cập đến các công nghệ khác nhau sử dụng in 3D làm phương pháp cốt lõi để chế tạo các tòa nhà hoặc
nhỏ|Từ trên xuống dưới, từ trái sang phải: [[Con dấu xi lanh|con dấu hình trụ của một cảnh, khối dùng để in mộc bản, con chữ có thể di chuyển được, máy in, máy in
**Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật** (tiếng Anh: _Science and Technics Publishing House_) thành lập năm 1960 tại Việt Nam theo quyết định số 185-KHH/QĐ (ngày 09 tháng 6 năm 1960) của Ủy
**Làng nghề** là một đơn vị hành chính cổ xưa mà cũng có nghĩa là một nơi quần cư đông người, sinh hoạt có tổ chức, có kỷ cương tập quán riêng theo nghĩa rộng.
In 3D có nhiều ứng dụng. Trong sản xuất, y học, kiến trúc, trong nghệ thuật và thiết kế tùy biến. Một số người sử dụng máy in 3D để tạo thêm máy in 3D.
Dưới đây là danh sách các thuật ngữ (gồm kích cỡ và thể loại) thường gặp khi mô tả ukiyo-e (), nghệ thuật in khắc gỗ và tranh của Nhật Bản. * ; tranh in
**Lịch sử Nhật Bản** bao gồm lịch sử của quần đảo Nhật Bản và cư dân Nhật, trải dài lịch sử từ thời kỳ cổ đại tới hiện đại của quốc gia Nhật Bản. Các
nhỏ|phải|Một cổng của [[Nhà thờ Đức Bà Chartres (khoảng năm 1145). Những bức tượng kiến trúc những tác phẩm điêu khắc Gothic sớm nhất và là một cuộc cách mạng trong phong cách và khuôn
Toán học trong nghệ thuật: Bản khắc trên tấm đồng mang tên _[[Melencolia I_ (1514) của Albrecht Dürer. Những yếu tố liên quan đến toán học bao gồm com-pa đại diện cho hình học, hình
**Hình tượng con ngựa trong nghệ thuật** là hình ảnh của con ngựa trong nghệ thuật, ngựa là chủ đề khá quen thuộc trong văn học, âm nhạc, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, chúng
thumb|Máy in ORDbot Quantum 3D thumb|Video về in 3D **In 3D** () hay còn gọi là **Công nghệ bồi đắp vật liệu**, là một chuỗi kết hợp các công đoạn khác nhau để tạo ra
nhỏ| [[Hiroshige sử dụng bokashi ở tiền cảnh, ở chân trời, trên bầu trời, trên áo choàng của thầy tu, và trong hộp tiêu đề.]] **_Bokashi_** (tiếng Nhật: ぼかし) là một kỹ thuật được sử
| religion_year = 2018 | religion_ref = | regional_languages = | demonym = | ethnic_groups = | ethnic_groups_year = 2016 | ethnic_groups_ref = | capital = Tokyo (de facto) | largest_city = Tập tin:PrefSymbol-Tokyo.svg Tokyo
nhỏ| [[Ổ đĩa cứng|Ổ cứng lưu trữ thông tin ở dạng nhị phân và do đó được coi là một loại phương tiện kỹ thuật số vật lý. ]] **Phương tiện truyền thông kỹ thuật
**Văn học Nhật Bản** là một trong những nền văn học dân tộc lâu đời nhất và giàu có nhất thế giới nảy sinh trong môi trường nhân dân rộng lớn từ thuở bình minh
phải|nhỏ|[[Lưu đồ thuật toán (thuật toán Euclid) để tính ước số chung lớn nhất (ưcln) của hai số _a_ và _b_ ở các vị trí có tên A và B. Thuật toán tiến hành bằng
**Âm nhạc Nhật Bản** bao gồm nhiều thể loại với nhiều cách thể hiện khác nhau trong cả âm nhạc hiện đại lẫn truyền thống. Âm nhạc trong tiếng Nhật gọi là 音楽 (_ongaku_), là
**_Tội phạm nhân bản 2049_** (tên gốc tiếng Anh: **_Blade Runner 2049_**) là một bộ phim điện ảnh đề tài khoa học viễn tưởng của Mỹ năm 2017 do Denis Villeneuve đạo diễn và Hampton
**Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất** (tên giao dịch chính thức: **Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất**; IATA: **SGN**; ICAO: **VVTS**) là sân bay quốc tế lớn nhất Việt Nam hiện tại.
**Kinh tế Nhật Bản** là một nền kinh tế thị trường tự do phát triển. Nhật Bản là nền kinh tế lớn thứ ba thế giới theo GDP danh nghĩa và lớn thứ tư theo
**Đài thiên văn phía Nam của Châu Âu** (tiếng Anh: _European Southern Observatory_ (ESO), tiếng Pháp: _Observatoire européen austral_), tên chính thức là **Tổ chức Nghiên cứu thiên văn châu Âu tại Nam Bán cầu**
**Mô hình hóa và chế tạo kỹ thuật số** và là một quá trình thiết kế và sản xuất kết hợp mô hình hóa 3D hoặc thiết kế có sự hỗ trợ tính toán (CAD)
**Nền văn hóa Nhật Bản** từ xa xưa đã mang nhiều nét độc đáo và đặc sắc riêng. Với vị trí địa lý đặc biệt khi bao quanh hoàn toàn bởi biển và do các
Trong tài chính, **phân tích kỹ thuật** là một phương pháp phân tích chứng khoán dự báo hướng của giá cả thông qua việc nghiên cứu các dữ liệu thị trường quá khứ, chủ yếu
**Buccaneer** là một máy in 3D được thiết kế bởi công ty khởi nghiệp Singapore Pirate3D Inc. Pirate3D được đồng sáng lập bởi Giáo sư Neo Kok Beng (Phó Giáo sư tại Đại học Quốc
**Bức Tường** là một ban nhạc rock Việt Nam được thành lập vào năm 1995. Họ trải qua nhiều lần thay đổi nhân sự và từng có thời gian ngừng hoạt động, song với hai
**Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản**, tên chính thức trong tiếng Nhật là , là lực lượng vũ trang của Nhật Bản, được thành lập căn cứ Luật Lực lượng phòng vệ năm 1954. Lực
Khoa học viễn tưởng là một thể loại quan trọng của văn học Nhật Bản hiện đại, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các khía cạnh của văn hóa đại chúng Nhật Bản đương đại,
nhỏ|Cổng chào Khu công nghệ cao Hòa Lạc **Khu Công nghệ cao Hòa Lạc** (tiếng Anh: _Hoa Lac Hi-Tech Park_, **HHTP**) là một khu công nghệ cao đã và đang được xây dựng trên địa
**Lịch sử quân sự Nhật Bản** mô tả cuộc chiến tranh phong kiến kéo dài nhằm tiến tới việc ổn định trong nước, sau đó cùng với việc viễn chinh ra bên ngoài cho tới
**Wings** (hay còn được gọi là **Paul McCartney and Wings**) là một ban nhạc rock Anh–Mỹ được thành lập vào năm 1971 bởi cựu thành viên The Beatles Paul McCartney, vợ của ông Linda McCartney
nhỏ|[[Tập tin:FIAV 000001.svg Cờ hiệu hải quân, treo trên các tàu của Hải quân Đế quốc Nhật Bản (1889–1945) Tỉ lệ cờ: 2:3]] nhỏ|[[Tập tin:FIAV 000001.svg Cờ hiệu hải quân, treo trên các tàu của
thumb|right|upright|_Bản sao Les Très Riches Heures du duc de Berry_, một bản thảo nổi tiếng được sử dụng cả trong trưng bày và nghiên cứu. **Bản sao** (facsimile - trong tiếng Latin là _fac simile_
**Cuộc chinh phục Guatemala của Tây Ban Nha** là một chuỗi các xung đột dai dẳng trong thời kỳ Tây Ban Nha thuộc địa hóa châu Mỹ ở nơi ngày nay là đất nước Guatemala.
**Công ty trách nhiệm hữu hạn xuất bản Sáng Nghệ** (Chữ Hán giản thể: 创艺, bính âm: _Chuàngyì_, tên tiếng Anh: _Chuang Yi Publishing Pte Ltd._) là một công ty xuất bản của Singapore chuyên
**_Bản danh sách của Schindler_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Schindler's List_**) là một bộ phim điện ảnh chính kịch cổ trang sử thi của Hoa Kỳ sản xuất và phát hành năm 1993 do Steven
Một ví dụ về bức ảnh phong cảnh tĩnh, giống tự nhiên được mô phỏng bằng máy tính **Công nghệ mô phỏng hình ảnh bằng máy
**Cục Đo đạc, Bản đồ và Thông tin địa lý Việt Nam** (tiếng Anh: _Department Of Survey, Mapping and Geographic Information Viet_, viết tắt là **DOSM**) là cơ quan trực thuộc Bộ Tài nguyên và
**Hải Ninh** (31 tháng 12 năm 1931 - 5 tháng 2 năm 2013) là một nhà đạo diễn điện ảnh Việt Nam nổi tiếng, ông đã đạo diễn cho nhiều bộ phim đoạt các giải
nhỏ|phải|alt=Political map of central Europe showing the 26 areas that became part of the united German Empire in 1891. Germany based in the northeast, dominates in size, occupying about 40% of the new empire.|Bản đồ
**Giải Oscar cho phim xuất sắc nhất** (tiếng Anh: **Academy Award for Best Picture**; còn có tên gọi khác là **Giải Oscar cho phim truyện xuất sắc nhất**) là hạng mục quan trọng nhất trong
Nhật Bản là quốc gia có số lượng Phật tử chiếm 34,9% dân số, có khoảng 377,000 tăng sĩ (2014). Có ngôi chùa gỗ cổ nhất thế giới Hōryūji (Pháp Long Tự). nhỏ|Chùa [[Yakushiji ở
"**DJ Got Us Fallin' in Love**" là một bài hát của ca sĩ người Mỹ Usher hợp tác với rapper người Mỹ Pitbull nằm trong đĩa mở rộng đầu tiên của Usher, _Versus_ (2010). Pitbull
**Led Zeppelin** là một ban nhạc rock người Anh được thành lập tại London vào năm 1968. Ban nhạc bao gồm tay guitar chính Jimmy Page, giọng ca Robert Plant, tay guitar bass và keyboard
upright=1.2|nhỏ|Năm bước trong quá trình làm giấy, được [[Thái Luân phát minh vào năm 105, thời Đông Hán]] Triều đại nhà Hán (206 TCN - 220) thời cổ Trung Hoa, chia ra làm hai giai
**Hội họa dân gian Việt Nam** là thuật ngữ mô tả một loại hình mỹ thuật dân gian đã hiện diện từ rất lâu đời tại Việt Nam và thường được sáng tác bởi các
Chuyển đổi số là quá trình thay đổi tổng thể và toàn diện của cá nhân, tổ chức về cách sống, cách làm việc và phương thức sản xuất dựa trên các công nghệ số.Chuyển