thumb|Tàu chở thủy phi cơ [[Pháp Foudre]]
thumb|, từng phục vụ như một tàu sân bay thủy phi cơ trong hai tháng vào năm 1913
thumb| vào khoảng năm 1918
Tàu tiếp liệu thủy phi cơ (tiếng Anh: seaplane tender) là những tàu thuyền hỗ trợ cho hoạt động của tàu bay và thủy phi cơ. Một số trong chúng là những tàu sân bay thủy phi cơ, không chỉ mang theo thủy phi cơ nhưng còn cung cấp mọi phương tiện cần thiết để duy trì hoạt động; những tàu này được xem là những tàu sân bay đầu tiên và đã xuất hiện ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất.
Thuật ngữ
thumb|Tàu tiếp liệu thủy phi cơ số 1502 của [[Không quân Hoàng gia Anh, năm 2011]]
Khi được sử dụng tại Anh, thuật ngữ tàu tiếp liệu (tender) được dùng để chỉ những tàu nhỏ, trong khi tàu kho chứa (depot ship) là những tàu đi biển lớn. Ngay cả tàu bay và thủy phi cơ khi đặt căn cứ tại cảng vẫn cần đến sự hỗ trợ của các tàu nhỏ để hoạt động.
Những tàu tiếp liệu thủy phi cơ của Anh là những tàu tương đối nhỏ. Chúng được sử dụng để vận chuyển đội bay, hàng hóa và tiếp liệu từ bờ đến máy bay, duy trì các phao tiêu để đánh dấu "đường bay" và "đường lăn" trên mặt nước, dọn dẹp những vật lạ và mảnh thải có thể gây hại trong quá trình cất hạ cánh, và trong trường hợp khẩn cấp để cứu nạn những tai nạn rơi máy bay trên biển. Đây là những chức năng do bộ phận phục vụ mặt đất của một sân bay đặt căn cứ trên bộ cung cấp.
Để bố trí các liên đội thủy phi cơ đến các căn cứ tại những khu vực chưa có sẵn cơ sở hạ tầng cần thiết, có thể thành lập những căn cứ tạm thời bằng cách gửi đến đó những tàu kho chứa cùng những tàu tiếp liệu nhỏ hơn. Những tàu này có thể đảm nhiệm vai trò trại binh, cơ xưởng, tháp chỉ huy... những vai trò mà một sân bay trên bộ phải đáp ứng bằng cách xây dựng các nhà xưởng.
Lịch sử
thumb|Thủy phi cơ trinh sát [[Curtiss SOC Seagull đang được kéo lên tàu tuần dương hạng nhẹ tại Bắc Phi, năm 1942]]
Sau khi phát minh ra thủy phi cơ đầu tiên, chiếc Fabre Hydravion của Pháp vào năm 1910, tàu chở thủy phi cơ đầu tiên tiếp nối ra đời vào năm 1911 là chiếc La Foudre của Hải quân Pháp. Nó chở theo máy bay có gắn phao nổi trong hầm chứa ở mức sàn chính, nơi nó dùng cần cẩu để hạ máy bay xuống nước. La Foudre tiếp tục được cải tiến vào tháng 11 năm 1913 với một sàn phẳng dài dùng để phóng máy bay. Một tàu chở thủy phi cơ khác trong thời sơ khai này là chiếc , một tàu tuần dương cũ được cải biến với một sàn cất cánh vào giữa năm 1913. Tuy nhiên mới là con tàu đầu tiên trong lịch sử được thiết kế và chế tạo như một tàu chở thủy phi cơ vào năm 1914
Thế Chiến I
thumb|[[Wakamiya (tàu chở thủy phi cơ Nhật)|Wakamiya của Hải quân Nhật là chiếc tàu đã tung ra cuộc không kích đầu tiên từ tàu sân bay vào tháng 9 năm 1914.]]
Trong cuộc phong tỏa Thanh Đảo, từ ngày 5 tháng 9 năm 1914, tàu chở thủy phi cơ Wakamiya của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, lúc này đang neo đậu trong vịnh Giao Châu, đã tiến hành các cuộc không kích đầu tiên trên thế giới xuất phát từ một tàu sân bay. Bốn thủy phi cơ Maurice Farman MF. 11 xuất phát từ Wakamiya đã ném bom các vị trí trên bộ còn do Đức chiếm giữ, bao gồm các sở chỉ huy và trung tâm thông tin liên lạc, và đã gây hư hại cho một tàu rải mìn tại Thanh Đảo cho đến ngày 6 tháng 11 năm 1914, khi quân Đức đầu hàng.
Vào ngày 25 tháng 12 năm 1914, Hải quân Hoàng gia Anh đã thực hiện cuộc không kích Cuxhaven; thủy phi cơ được chuyên chở đến sát mục tiêu trong tầm hoạt động để trinh sát và ném bom các mục tiêu của Hải quân Đức tại Heligoland Bight.
Các tàu chở thủy phi cơ có hầm chứa để chứa và bảo trì máy bay, nhưng không có sàn đáp như một tàu sân bay thực thụ. Thay vào đó, chúng dùng cần cẩu để hạ máy bay xuống nước khi cất cánh và thu hồi sau khi hạ cánh. Chúng thường là những tàu buôn vũ trang được cải tạo hơn là những tàu được thiết kế chuyên biệt cho vai trò này. Nhưng khi máy bay càng tiến bộ, việc sử dụng chúng phát sinh nhiều bất cập. Máy bay chỉ có thể cất hay hạ cánh trên biển khi sóng lặng, và con tàu phải dừng lại để phóng hay thu hồi máy bay, cả hai quá trình này mất khoảng 20 phút. Tàu chở thủy phi cơ được bố trí khoảng phía trước hàng chiến trận chính và được các tàu tuần dương hộ tống, để nó không bị tụt lại phía sau quá xa khi phóng máy bay lên. Thủy phi cơ cũng có tính năng hoạt động kém hơn máy bay thông thường do trọng lượng và lực cản của các phao nổi. Hầu hết tàu chở thủy phi cơ được tàu sân bay thay thế vào giai đoạn kết thúc Thế Chiến I, cho dù tầm quan trọng của máy bay vẫn thấp hơn nhiều so với hỏa lực của hải pháo.
Chiếc của Anh là một tàu tiếp liệu thủy phi cơ có một sàn cất cánh. Thủy phi cơ có thể thu hồi trong khi con tàu đang di chuyển bởi thiết bị "Hein Mat", một tấm đệm thả nổi trên mặt nước kéo theo sau con tàu. Khi chiếc máy bay di chuyển lên tấm đệm, nó được cố định tương đối so với con tàu và có thể được trục lên tàu.
thumb|Tàu tiếp liệu thủy phi cơ Australia và một máy bay của nó đang bay ngang (AWM 300122).
Trong những năm giữa hai cuộc thế chiến, tàu tuần dương và thiết giáp hạm thường được trang bị thủy phi cơ trinh sát được phóng lên bằng máy phóng. Hải quân một số nước, đặc biệt là những nước không có tàu sân bay thực thụ, trang bị tàu sân bay chở thủy phi cơ có trang bị máy phóng để làm nhiệm vụ trinh sát cho hạm đội.
Thế Chiến II
thumb|alt=USS Timbalier (AVP-54)|Tàu tiếp liệu thủy phi cơ cùng với hai [[tàu bay Martin PBM Mariner sau Thế Chiến II, khoảng năm 1948.]]
thumb|
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, cả Hải quân Hoa Kỳ lẫn Nhật Bản đều chế tạo một số tàu tiếp liệu thủy phi cơ để bổ sung cho số tàu sân bay của họ. Tuy nhiên chúng thường được tháo dỡ máy phóng và thường hay sử dụng như như tàu phụ trợ để phục vụ cho thủy phi cơ tại cảng hơn là ngoài chiến trường. Những máy bay này thường là máy bay tuần tra trinh sát tầm xa. Các tàu tiếp liệu cho phép bố trí nhanh chóng số máy bay này đến các căn cứ mới mà không cần phải xây dựng đường băng, và mọi cơ sở hậu cần đều là di động, giống như các tàu kho chứa phục vụ cho tàu tiếp liệu tàu ngầm và tàu tiếp liệu khu trục.
Hải quân Đức quốc xã trong Thế Chiến II không vận hành bất cứ tàu tiếp liệu thủy phi cơ nào, nhưng Không quân Đức có đến 19 tàu tiếp liệu thủy phi cơ. Hầu hết chúng đều được cải biến từ tàu dân sự và có thể mang theo 1-3 thủy phi cơ. Hải quân Pháp và Ý cũng đều có tàu tiếp liệu thủy phi cơ.
Tàu tiếp liệu thủy phi cơ trở nên lạc hậu ngay khi Thế Chiến II kết thúc. Một số còn tiếp tục phục vụ cho đến sau chiến tranh, nhưng đến cuối thập niên 1950 đa số đã bị tháo dỡ hay cải biến cho những vai trò khác, ví dụ như tàu sửa chữa máy bay trực thăng.
Danh sách tàu tiếp liệu thủy phi cơ
Các ví dụ về tàu tiếp liệu thủy phi cơ:
- (Australia, 1928)
- Akitsushima (Nhật Bản, phục vụ từ năm 1942 đến khi bị đánh chìm năm 1944)
- La Foudre (Pháp, cải biến thành tàu chở thủy phi cơ đầu tiên trên thế giới vào năm 1911-1913)
- Chitose (Nhật Bản, 1936; cùng với tàu chị em Chiyoda được cải biến thành tàu sân bay thông thường vào những năm 1943-1944)
- Mizuho (Nhật Bản, đặt lườn 1937, hoạt động từ 1938 tới 1942, bị đánh chìm bởi ngư lôi từ tàu ngầm của Hải quân Mỹ)
- Commandant Teste (Pháp, 1932)
- Giuseppe Miraglia (Ý, nguyên là chiếc tàu buôn Citta de Messina được cải biến năm 1927)
- Dédalo (Tây Ban Nha, nguyên là chiếc tàu buôn Đức Neuenfels được cải biến năm 1922)
- (Anh, 1914, đổi tên thành Pegasus năm 1934)
- (Anh, một tàu phà được cải biến năm 1915 và sử dụng trong Thế Chiến I)
- (Anh, 1911, một tàu phà khác được cải biến; có mặt trong Trận Jutland)
- (Anh)
- (Anh, tàu chị em với Engadine)
- (tàu sân bay đầu tiên của Hoa Kỳ, cải biến thành tàu tiếp liệu thủy phi cơ năm 1937)
- (Hoa Kỳ, một thiết giáp hạm được sử dụng như một tàu tiếp liệu thủy phi cơ năm 1914)
- (Hoa Kỳ, tàu tiếp liệu thủy phi cơ phục vụ trong Thế Chiến I)
- và (Hoa Kỳ, tàu tiếp liệu thủy phi cơ thời Thế Chiến II, cả hai đã tham gia Chiến dịch Highjump năm 1947 để hoạt động thử nghiệm tại Nam Cực)
- (Hoa Kỳ, tàu tiếp liệu thủy phi cơ, sau được cải biến thành tàu mang tên lửa điều khiển đầu tiên của Hoa Kỳ)
- HMAFV Adastral, nguyên là chiếc HMS Fife Ness của Hải quân Anh, cải biến thành tàu kho chứa cho thủy phi cơ và được Không quân Anh sử dụng từ năm 1947 đến năm 1953
- (Hoa Kỳ, một tàu chở hàng cải biến thành thành tàu tiếp liệu thủy phi cơ trong Thế Chiến II)
- (Hoa Kỳ, phục vụ tàu bay Martin PBM Mariner cho đến năm 1954)
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|Tàu chở thủy phi cơ [[Pháp _Foudre_]] thumb|, từng phục vụ như một tàu sân bay thủy phi cơ trong hai tháng vào năm 1913 thumb| vào khoảng năm 1918 **Tàu tiếp liệu thủy phi
**USS _William B. Preston_ (DD-344/AVP-20/AVD-7)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của
**USS _Williamson_ (DD-244)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, được cải biến thành tàu tiếp liệu thủy phi cơ
**USS _Hulbert_ (DD-342/AVD-6)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân
**USS _McFarland_ (DD-237)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế giới
**USS _Childs_ (DD-241)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, được cải biến thành tàu tiếp liệu thủy phi cơ
**USS _Gillis_ (DD-260/AVD-12)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, được cải biến thành tàu tiếp liệu thủy phi cơ
**USS _Greene_ (DD-266/AVD-13/APD-36)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, được cải biến thành tàu tiếp liệu thủy phi cơ
**USS _Osmond Ingram_ (DD-255/AVD–9/APD-35)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, được cải biến thành tàu tiếp liệu thủy phi
**USS _Thornton_ (DD-270/AVD-11)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, được cải biến thành tàu tiếp liệu thủy phi cơ
**USS _Ballard_ (DD-267/AVD-10)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, trong Chiến tranh Thế giới thứ Hai được cải biến
**USS _Belknap_ (DD-251/AVD-8/DD-251/APD-34)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, được cải biến thành tàu tiếp liệu thủy phi cơ
**_I-121_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 48_** và mang tên **_I-21_** từ năm 1924 đến năm 1938 là một tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu
nhỏ|250x250px|Hàng không mẫu hạm lớn nhất thế giới. Nhân viên điều hành trên tháp quan sát của chiếc [[USS Ronald Reagan của Hoa Kỳ.|thế=]] **Tàu sân bay** (tiếng Anh: _aircraft carrier_), hay **hàng không mẫu
**_I-122_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 49_** và mang tên **_I-22_** từ năm 1926 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-6_** là một tàu ngầm tuần dương, là chiếc duy nhất thuộc phân lớp của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và có khả năng mang máy bay. Nhập biên chế năm 1935, _I-6_ đã
**_I-71_**, sau đổi tên thành **_I-171_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-351_** là một tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc duy nhất của lớp tàu ngầm chở dầu _I-351_ () được Nhật Bản hoàn tất trong giai đoạn cuối Chiến tranh
**_I-123_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 50_** và mang tên **_I-23_** từ năm 1927 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-75_**, sau đổi tên thành **_I-175_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
thumb|right| USS _Barr_ (APD-39) (nguyên là tàu hộ tống khu trục DE-576) sau khi được cải biến thành một tàu vận chuyển cao tốc phụ trợ **Tàu vận chuyển cao tốc** (tiếng Anh: high-speed transport)
là một lớp tàu ngầm vận tải/chở dầu của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Hải quân Nhật Bản gọi tên lớp tàu này như là
**_I-74_**, sau đổi tên thành **_I-174_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**Lớp tàu khu trục _Wickes**_ (từ DD-75 đến DD-185) là một nhóm 111 tàu khu trục được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong những năm 1917-1919. Cùng với 6 chiếc lớp _Caldwell_ dẫn trước
**Lớp tàu khu trục _Clemson**_ là một nhóm 156 tàu khu trục được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất và đã phục vụ cho đến hết Chiến
**USS _O'Brien_ (DD-415)** là một tàu khu trục lớp _Sims_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai; nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân
**USS _Aylwin_ (DD-355)** là một tàu khu trục lớp _Farragut_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân
**USS _Alden_ (DD-211)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế
**_I-7_** là một tàu ngầm tuần dương phân lớp bao gồm hai chiếc có khả năng mang máy bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó cùng với tàu chị em _I-8_ là những
**_I-29_**, tên mã _Matsu_, là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm
**USS _Oliver Mitchell_ (DE-417)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _John C. Butler_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến
**USS _Whipple_ (DD- 217/AG-117)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh
**USS _Goldsborough_ (DD-188/AVP-18/AVD-5/APD-32)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất và tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế giới
**USS _Zane_ (DD-337/DMS-14/AG-109)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân
**USS _Thomas E. Fraser_ (DD-736/DM-24)** là một tàu khu trục rải mìn lớp _Robert H. Smith_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Con tàu được đặt theo
**USS _Vesole_ (DD-878)** là một tàu khu trục lớp _Gearing_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của
**USS _Worden_ (DD-352)** là một tàu khu trục lớp _Farragut_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân
**USS _Chauncey_ (DD-667)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Mỹ
**USS _Alvin C. Cockrell_ (DE-366)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _John C. Butler_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu
**USS _Edsall_ (DD-219)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và đã tiếp tục phục vụ vào đầu Chiến tranh
**USS _Harding_ (DD-91)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân
**_I-58_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Đang khi chế tạo, nó được cải biến
**USS _La Prade_ (DE-409)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _John C. Butler_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến
**USS _William C. Cole_ (DE-641)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Buckley_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên nó được đặt theo Phó đô
**USS _George E. Badger_ (DD-196/CG-16/AVP-16/AVD-3/APD-33)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất; từng phục vụ cho Lực lượng Tuần duyên
**_U-571_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**USS _Jenkins_ (DD-447/DDE-447)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**USS _Wasmuth_ (DD-338/DMS-15)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân
**USS _Steele_ (BDE-8/DE-8)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Evarts_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải
**_U-255_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, _U-255_ là một