✨USS William C. Cole (DE-641)

USS William C. Cole (DE-641)

USS William C. Cole (DE-641) là một tàu hộ tống khu trục lớp Buckley được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên nó được đặt theo Phó đô đốc William C. Cole (1868–1935), người từng tham gia các cuộc Chiến tranh Tây Ban Nha-Hoa Kỳ và Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và được tặng thưởng Huân chương Chữ thập Hải quân.

Lịch sử hoạt động

Quần đảo Solomon và New Guinea

Sau khi hoàn tất chuyến đi chạy thử máy huấn luyện ngoài khơi bờ biển San Diego, California, William C. Cole được sửa chữa sau thử máy tại xưởng tàu trước khi khởi hành từ vùng bờ Tây vào ngày 19 tháng 7, 1944 để hướng sang quần đảo Hawaii. Sau khi đi đến Oahu, nó tiến hành huấn luyện tại khu vực phụ cận Trân Châu Cảng cho đến ngày 1 tháng 8. Cùng với tàu hộ tống khu trục , nó lên đường để tham gia thành phần hộ tống một đoàn tàu bao gồm các tàu chở dầu và ; tàu tiếp liệu thủy phi cơ ; các tàu sân bay hộ tống and ;; tàu đông lạnh và tàu chở hàng SS Cape Pillar đi sang khu vực quần đảo Marshall. Sau khi đoàn tàu đi đến Majuro an toàn, nó hộ tống Admiralty IslandsBougainville quay trở lại Trân Châu Cảng.

Sau năm ngày được bảo trì, William C. Cole lại rời Trân Châu Cảng, cùng các tàu hộ tống khu trục và hộ tống một đoàn tàu buôn hướng sang quần đảo Marshall. Nó được cho tách ra khỏi đoàn tàu vào ngày 28 tháng 8 để hộ tống chiếc tàu buôn SS Cape Page đi Kwajalein, rồi quay trở lại Hawaii vào ngày 1 tháng 9. Sau một tuần lễ được bảo trì, con tàu tiếp tục lên đường vào ngày 15 tháng 9, tháp tùng chiếc tàu sân bay hộ tống trong hành trình đi sang đảo Manus thuộc quần đảo Admiralty. Nó chuyển sang thuộc quyền Bộ chỉ huy Lực lượng Nam Thái Bình Dương từ ngày 25 tháng 9.

Khởi hành từ Seeadler Harbor, Manus vào ngày 1 tháng 10, William C. Cole cùng tàu chị em hướng đến khu vực quần đảo Solomon. Từ ngày 4 đến ngày 11 tháng 10, nó huấn luyện phối hợp cùng các đơn vị khác thuộc Đội hộ tống 73 ngoài khơi vịnh Purvis. Đến ngày 18 tháng 10, nó hộ tống chiếc tàu buôn SS Cape Johnson đi từ Lunga Point, Guadalcanal đến mũi Torokina, Bougainville trước khi quay trở lại vịnh Purvis để bảo trì và huấn luyện tác xạ cho đến hết tháng 10. Từ đó cho đến tháng 2, 1945, con tàu hoạt động từ vịnh Purvis, phục vụ hộ tống vận tải cho tàu bè đi lại giữa Guadalcanal, Bougainville và New Caledonia; nó từng hộ tống cho SS Sea Cat, SS Sea Snipe, , , , , , và .

Sau khi thực hành tác xạ từ ngày 3 đến ngày 23 tháng 2, William C. Cole trình diện để phục vụ cùng Tư lệnh Đệ Ngũ hạm đội, và từ ngày 24 tháng 2 đến đầu tháng 3 đã làm nhiệm vụ hộ tống khu vực vận chuyển ngoài khơi Lunga Point, Guadalcanal, bảo vệ các tàu vận tải thuộc Hải đội Đổ bộ 4 đang thực hành đổ bộ tại khu vực. Nó tiếp tục bảo vệ cho Hải đội Đổ bộ 4 đón binh lính lên tàu tại Lunga Point từ ngày 10 đến ngày 13 tháng 3, trước khi lên đường đi sang quần đảo Russell.

Cùng các tàu khu trục , và , William C. Cole khởi hành vào ngày 15 tháng 3 để hướng đến Ulithi về phía Tây quần đảo Caroline, hộ tống cho các đơn vị thuộc Hải đội Đổ bộ 4. Được cho tách ra vào ngày 22 tháng 3, nó cùng Paul G. Baker hộ tống các tàu chở hàng và đi sang khu vực quần đảo Mariana; sau khi đưa đoàn tàu đi đến Saipan an toàn, hai chiếc tàu hộ tống khu trục lập tức quay trở lại Ulithi. Nó được tiếp liệu trước khi cùng , và lên đường hộ tống cho Đội tàu sân bay 22 (thiếu và ). Được thay phiên nhiệm vụ hộ tống vào ngày 31 tháng 3, nó lại cùng tàu chiến thuộc Đội hộ tống 73 tháp tùng bảo vệ cho Hải đội Vận chuyển 18 đang trên đường hướng sang Okinawa.

Okinawa

Đoàn tàu đi đến ngoài khơi bãi biển phía Tây vào xế trưa ngày hôm đó, được đối phương chào đón bởi những đợt không kích rải rác nhưng kéo dài. Từ ngày 1 đến ngày 4 tháng 4, William C. Cole nhiều lần phải chuyển sang báo động trực chiến phòng không khi máy bay đối phương xuất hiện tại khu vực lân cận. Bản thân con tàu đã bắn hạ một máy bay tấn công và trợ giúp vào việc bắn rơi hai chiếc khác trước khi hộ tống cho Đội vận chuyển 42 rút lui khỏi Okinawa vào ngày 5 tháng 4. Sau khi về đến Saipan, nó được lệnh tiếp tục đi đến Ulithi để được tiếp liệu trước khi lại lên đường vào ngày 13 tháng 4, hộ tống cho Đội vận chuyển 56 đi sang Okinawa.

Đi đến ngoài khơi bãi đổ bộ phía Tây của Okinawa vào ngày 17 tháng 4, William C. Cole được tách khỏi nhiệm vụ hộ tống vận tải để chuyển sang tuần tra bảo vệ chống tàu ngầm và phòng không. Nó làm nhiệm vụ này tại vùng biển phụ cận khu vực vận chuyển cho đến ngày 26 tháng 4, khi nó cùng , , và hộ tống bảo vệ cho Đội vận chuyển 104 rút lui. Sau khi về đến Ulithi vào ngày 30 tháng 4, con tàu được bảo trì trong bốn ngày.

Sau khi hoàn tất việc sửa chữa, William C. Cole được phái đến một trạm cột mốc radar ngoài khơi đảo Yap trước khi quay trở về khu vực Tây Caroline vào ngày 13 tháng 5. Sang ngày hôm sau, nó cùng chiếc hộ tống cho thiết giáp hạm và tàu tuần dương hạng nặng quay trở lại Okinawa. Đến nơi vào ngày 17 tháng 5, con tàu lại đảm nhiệm tuần tra phòng không và chống tàu ngầm.

Đang khi hoạt động tuần tra từ ngày 19 đến ngày 23 tháng 5, William C. Cole chứng kiến nhiều hoạt động của không quân đối phương. Sang ngày 24 tháng 5, bản thân nó bị đối phương nhắm đến; trong khoảng từ 18 giờ 30 phút ngày 24 tháng 5 cho đến 06 giờ 00 ngày 25 tháng 5, nó đã bắn rơi hai máy bay tấn công cảm tử Kamikaze Nhật Bản. Trong khi con tàu đang ở vị trí về phía Đông Bắc Ie Shima, một máy bay tiêm kích Nakajima Ki-43 "Oscar" tìm cách đâm tự sát vào con tàu; đối thủ rơi xuống biển sát cạnh mạn phải con tàu sau khi đầu cánh của nó va chạm với ống phóng ngư lôi đang xoay qua mạn phải. Chiếc thứ hai, một máy bay tiêm kích Kawasaki Ki-61 "Tony", tiếp cận con tàu từ mạn phải và phải chịu đựng hỏa lực phòng không dày đặc từ các khẩu đội Oerlikon 20 mm và Bofors 40 mm. Do hạm trưởng con tàu đã nhận thức mối đe dọa từ xa, ra lệnh cho phòng máy chạy lui hết tốc độ, kẻ tấn công bị rơi xuống biển cách rất xa con tàu.

Tháng 6 – tháng 8, 1945

Sau khi được tiếp đạn dược tại Kerama Retto vào ngày 30 tháng 5, William C. Cole khởi hành vào ngày hôm sau hộ tống một đoàn tàu buôn đi Saipan. Vào ngày 2 tháng 6, nó và tàu vận chuyển cao tốc gặp gỡ một đoàn tàu vận tải để cùng hộ tống chúng đi , đến nơi vào ngày 6 tháng 6. Sau khi được tiếp nhiên liệu, nó khởi hành hướng sang Philippines, cùng tàu khu trục và tàu tàu hộ tống khu trục bảo vệ cho một đoàn tàu buôn đi đến Leyte.

Sau khi đoàn tàu đi đến vịnh San Pedro an toàn vào ngày 10 tháng 6, William C. Cole được sửa chữa những hư hại nó phải chịu đựng tại Okinawa từ tận tháng 5. Cùng tàu tàu hộ tống khu trục hướng sang Luzon, nó được tiếp nhiên liệu tại vịnh Lingayen rồi hộ tống một đoàn tàu đổ bộ LST đi sang Okinawa. Đến nơi vào ngày 24 tháng 6, nó chuyển đến Kerama Retto vào ngày hôm sau để sáp nhập cùng tàu tiếp liệu thủy phi cơ , và cùng hai tàu kéo, và hộ tống đơn vị này hướng sang Saipan, đến nơi vào ngày 30 tháng 6.

Được phân công một vị trí tuần tra về phía Đông Saipan từ ngày 2 tháng 7, William C. Cole hoạt động canh phòng cho đến khi được chiếc thay phiên vào ngày 11 tháng 7. Nó ở lại khu vực Saipan cho đến ngày 22 tháng 7, khi được điều đến Guam, và hoạt động tuẩn tra ngoài khơi Apra Harbor trong một tuần trước khi cùng quay trở lại Saipan. Vào cuối tháng 7, nó hộ tống tàu vận tải tấn công đi sang Eniwetok thuộc quần đảo Marshall.

William C. Cole khởi hành độc lập đi sang Saipan, đến nơi vào ngày 8 tháng 8. Nó hoạt động huấn luyện phối hợp cùng tàu ngầm, thực hành tác xạ phòng không và được bảo trì, cũng như tuần tra ngoài khơi Tinian cho đến ngày 17 tháng 8, lúc Nhật Bản đã chấp nhận đầu hàng hai ngày trước đó.

Sau chiến tranh

Cho dù cuộc xung đột đã kết thúc, William C. Cole vẫn có những nhiệm vụ phải thực hiện. Nó hộ tống chiếc tàu săn ngầm PC-1587 đi Iwo Jima, rồi hoạt động tìm kiếm và giải cứu tại vùng biển ngoài khơi hòn đảo này cho đến giữa tháng 10. Quay trở lại Saipan, nó tiếp tục phục vụ trong vai trò tương tự cho đến khi lên đường quay trở về vùng bờ Tây Hoa Kỳ.

Sau khi được đại tu tại Xưởng hải quân Puget Sound, Bremerton, Washington, William C. Cole quay trở lại Viễn Đông ngang qua Trân Châu Cảng và Guam vào mùa Xuân năm 1946. Nó đã hoạt động tại Thượng Hải, Okinawa và Thanh Đảo trong mùa Hè trước khi quay trở về nhà, đi ngang qua Guam, Kwajalein và Trân Châu Cảng trước khi về đến San Diego vào ngày 28 tháng 7. Con tàu có một lượt phục vụ khác trong thời bình tại khu vực Tây Thái Bình Dương trong năm 1947, từ ngày 10 tháng 3 đến ngày 31 tháng 8, khi nó viếng thăm Sasebo, Busan, Yokosuka, Wakayama và Kagoshima.

Sau đó William C. Cole hoạt động tại chỗ từ căn cứ San Diego cho đến khi được xuất biên chế vào ngày 13 tháng 3, 1948 và được đưa về Hạm đội Dự bị Thái Bình Dương. Con tàu không bao giờ được đưa ra hoạt động trở lại; tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 1 tháng 3, 1972, và con tàu được bán cho hãng Zidell Explorations, Inc. tại Portland, Oregon vào ngày 20 tháng 11, 1972 để tháo dỡ.

Phần thưởng

William C. Cole được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**USS _William C. Cole_ (DE-641)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Buckley_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên nó được đặt theo Phó đô