Tẩu pháp (fugue) là tiến trình nhạc Phức điệu trong đó một chủ đề được trình bày lúc ban đầu bằng mối tương quan chủ âm/át âm, sau đó được khai triển bằng kỹ thuật Đối âm. Thuật ngữ Tẩu pháp còn ám chỉ một tác phẩm âm nhạc nhiều chương (tương tự như thuật ngữ Sonata) có cấu trúc chặt chẽ, với quá trình sáng tác có tính cách luận lý (logic) và quá trình sáng tác này được mệnh danh là Luận Nhạc (composition).
Tính chất của Tẩu pháp
Một bản tẩu pháp tổng quát có chứa một chuỗi những đoạn trình bày và những đoạn phát triển không giới hạn số lượng. Đơn giản nhất, một khúc tẩu pháp chỉ có một đoạn trình bày và một đoạn phát triển tự do. Một bản tẩu pháp phức tạp hơn gồm một đoạn trình bày và nhiều đoạn phát triển, hoặc có thêm một đoạn trình bày khác với một hoặc nhiều đoạn phát triển. Loại tẩu pháp cung thể trung tâm sẽ trình bày chủ đề không có chuyển cung ra ngoài mối tương quan chủ âm/át âm ban đầu.
Các thành phần của Tẩu pháp
Nhạc đề chính của Tẩu pháp và cách khởi tấu của nó
Nhạc đề (subject): Dòng nhạc có chứa yếu tố giai điệu/tiết tấu của tẩu pháp. Nhạc đề tiêu biểu có hai phần: phần "đầu" nhằm gây sự chú ý với khán thính giả nên không nhấn mạnh về tiết tấu hoặc quãng nhạc, còn phần "đuôi" có nhiều liên kết, nhiều hình thức tiết tấu, đôi khi có chuyển cung thể. Phần đầu và/hoặc phần đuôi có thể có tiềm năng biến tấu thành một hoặc hai nhạc tố nhỏ hơn và chúng có đặc điểm về tiết tấu và/hoặc quãng nhạc.
Đáp đề (answer): Nhạc đề phỏng tạo đi theo ngay sau lần trình bày thứ nhất của Nhạc đề, nằm ở một bè khác và thường được nâng cao một quãng năm. Đáp đề là một lớp con của chủ đề có mang đặc tính quãng nhạc nằm trong mối tương quan với chủ đề gốc.
*Đáp đề Thang âm (tonal answer): một đáp đề tiêu biểu (không phải nhất định như vậy) nằm cùng bộ khóa với chủ đề. Thực hiện điều này cần phải thay đổi một vài quãng nhạc so với chủ đề. Trong một đáp đề thang âm "do" và "sol" hoán vị cho nhau: Bậc đang sử dụng là "do," trong chủ đề, trở thành "sol" trong đáp đề và ngược lại. Phân tích kỹ thuật: các chủ đề chỉ nhảy quãng trong các bậc của âm giai chủ và âm giaí át để tạo đáp đề thang âm.
*Đáp đề Thực trạng (real answer): một đáp đề được thực hiện bằng cách dịch giọng chủ đề sang một cung khác, thông thường là cung át. Phân tích kỹ thuật: các chủ đề phải nhảy quãng đúng y như chủ đề và không nằm trong các bậc của âm giai chủ và âm giaí át để tạo đáp đề thực trạng.
Phản đề (countersubject): một âm hình độc lập nối trực tiếp ngay sau chủ đề hoặc đáp đề (trong cùng bè). Phản đề được thực hiện bằng phương pháp đối âm với chủ đề hoặc đáp đề đang dược phát biểu ở bè khác. Không phải mỗi bài tẩu pháp chỉ có một phản đề. Nhiều bản tẩu pháp có nhiều hơn một phản đề.
Chủ đề giả (false subject): Một số người dùng thuật ngữ "chủ đề giả" để miêu tả chủ đề (hoặc đáp đề) được khởi đầu nhưng không đi đến giai kết. Thuật ngữ này được dự trù cho những trường hợp chủ đề vừa xuất hiện, bị bẻ gãy ngang, và được nối tiếp ngay bằng một nét nhạc khác. Hầu hết những trường hợp chủ đề không giai kết sẽ được phát triển thành những câu nhạc "phỏng tạo".
Các chương chính của Tẩu pháp
Trình bày (exposition): Chương này trình bày chủ đề với ít nhất một đáp đề và có thể có phản đề. Đặc tính của chương trình bày là chủ đề lần lượt xuất hiện ở tất cả các bè, và đáp đề (thang âm hoặc thực trạng) có liên hệ chính xác với chủ đề. Các chủ đề và đáp đề thường xuất hiện nối tiếp ngay lập tức ở các bè khác nhau, nghĩa là khi một chủ đề vừa được trình bày xong thì đáp đề xuất hiện ở một bè khác ngay lập tức. Giai kết của phần trình bày cỏ thể được dời xuống phần Tái hiện. Chương này có thể được mở rộng bằng cách trình bày lại lần nữa với sự đảo thứ tự giữa các bè (so với lần trình bày đầu tiên) và có hoặc không thay đổi chủ đề.
*Tái trình bày (re-exposition): phần trình bày lại, nối với phần trình bày đầu tiên, trật tự các bè được giữ nguyên giống như lần trình bày đầu tiên.
*Đối trình bày (counter exposition): phần trình bày lại, nối với phần trình bày đầu tiên, trật tự các bè được thay đổi hoặc chủ đề thay đởi bằng biến thể đối âm củ chủ đề nguyên thủy.
*Trình bày kép (double exposition): phần trình bày sử dụng một nét nhạc chủ đề mới (có thể không dùng thủ pháp đối âm trên chủ đề một). Nếu chủ đề mới độc đáo, thì đó là một bản ‘tẩu pháp kép’ (trường hợp có ba chủ đề khác nhau, đó là tẩu pháp kép ba).
Khai triển (developmental): Chương Khai triển xử lý các nhạc tố trong chương trình bày bằng những thủ pháp như Chuyển tiến, Chuyển cung thể, Chuyển ngược, Đối âm kép, Xiết chặt, Khuếch đại / Thu hẹp, Âm nền... Chương này thường kết thúc bằng một giai kết hoặc vài giai kết nối tiếp nhau. Đặc điểm của chương khai triển là chủ đề được phân đoạn hoặc biến thể bằng nhiều bút pháp khác nhau, nhưng xây dựng dần dần Chủ đề Biến cách tồn tại trong ít nhất một bè nào đó. Các chủ đề biến cách thường không nằm trong tương quan chủ âm / át âm như đoạn trình bày và được mệnh danh là "những đoạn du hứng" (divertimento). Chương Khai triển tiêu biểu không cần phát biểu chủ đề ở tất cả mọi bè.
Tái hiện (coda hoặc codetta): Bao gồm phân đoạn của một chương (codetta) hoặc toàn bộ tẩu pháp (coda). Các coda và codetta thường có âm hưởng dường chúng là phần thêm vào sau cấu trúc kết thúc của một chương. Chức năng của các codetta thường là chuyển cung ngược (để quay về cung thể của chủ đề chính). Không phải mọi bản tẩu pháp đều có chương này.
Kỹ thuật sáng tác Tẩu pháp
Biến tấu Cung thể (Tonal variation)
Chuyển cung (modulation): Phỏng diễn một nhạc tố ở một cung khác. Nhạc sĩ J. S. Bach thường sắp xếp các tẩu pháp của ông ở những cung gần (các cung trưởng và thứ nằm kề nhau trong vòng tròn công năng quãng năm).
Chuyển thể (mutation): Phát biểu chủ đề hoặc đáp đề (hoặc những chất liệu sơ cấp khác) ở "thể" ngược lại. Thí dụ chủ đề ban đầu ở thể thứ (minor) và chủ đề sau ở thể trưởng (major) thì gọi là "chuyển thể".
Biến tấu Đối âm (Contrapuntal variation)
Xiết chặt (stretto): Nhạc tố ở bè thứ nhì xuất hiện trước khi nhạc tố ở bè thứ nhất kết thúc. Nhạc tố có thể là chủ đề, đáp đề, phản đề, hoặc những phỏng diễn khác phát xuất từ giai điệu / tiết tấu.
Khuếch đại / Thu hẹp (augmentation/diminution): Phát biểu nhạc tố với tiết tấu được tăng đôi hoặc chia đôi.
Âm nền (pedal point): duy trì liên tục một cao độ, thường là âm trầm, tạo nên sự luân phiên giữa hoà âm thuận và hoà âm nghịch với các bè bên trên. Tẩu pháp rất thường sử dụng âm nền.
Chuyển ngược (retrograde): (ít thấy) Phát biểu các nốt của nhạc tố "ngược trật tự".
Nghịch đảo Giai điệu (melodic inversion): (contrary motion) Phát biểu nhạc tố với các quãng nhạc đi "ngược hướng" với nhạc tố nguyên thủy. Nếu tính chất của các quãng nhạc được giữ nguyên thì chuyển hành được gọi là "đối xứng qua gương".
Chuyển tiến (sequence): Lặp lại nhạc tố ở "cao độ khác", bước cao hơn hoặc thấp hơn. Mỗi câu lặp lại được gọi là một "bước tiến". Chuyển tiến mà mỗi bước tiến tự nó có chứa một mẫu chuyển tiến được gọi là "làm tổ". Thủ pháp chuyển tiến của J. S. Bach có khuynh hướng trở thành biến tấu tiếp theo, với toàn bộ chuyển tiến bao gồm hai hoặc ba bước tiến, mỗi bước tiến có chứa hai hoặc ba đơn vị phụ trợ. Thí dụ: kỹ thuật chuyển tiến trong tác phẩm bút pháp đối xứng qua gương trong Nghệ thuật Tẩu pháp. Phần Chuyển tiến tự thân xuất hiện trong Chương Trình bày và có tiềm năng để khai triển.
Nghịch đảo Đối âm (contrapuntal inversion): Phỏng diễn tay đôi hoặc tay ba. Tái hiện từng cặp bè (Đối âm kép đôi) hoặc ba bè (Đối âm kép) trong đó những bè đã xuất hiện sẽ được phân bố lại "khác thứ tự", nhờ đó tương quan quãng nhạc sẽ tạo nên sự thay đổi.
Thể loại Nghịch đảo Đối âm
Đảo Quãng Tám: Quãng Bốn trở thành Quãng Năm, đồng âm trở thành Quãng Tám... Trong khi âm thanh quãng bốn song song, không thể đối âm nghịch đảo, và phỏng diễn tay đôi theo Quãng Tám phải tránh điều này. Xem bài Canon per Augmentationem in contrario Motu trong tác phẩm Art of Fugue là thí dụ về Đối âm Kép quãng tám.
Đảo Quãng Mười (8va+3rd): các bước chuyển hành song song được tránh. Bởi vì bước song song ở nguyên vị thì được chấp nhận (vd: Q3 & Q6), nhưng sau khi nghịch đảo thì bị phạm lỗi (Q8 & Q5). Xem bài Canon alla Decima trong tác phẩm Art of Fugue.
Đảo Quãng Mười Hai (8va+5th): Ngoại trừ Quãng ba, chuyển hành song song bị phạm lỗi sau khi nghịch đảo Quãng Mười Hai. Tuy nhiên, trong bài Canon alla Duodecima của tác phẩm Art of Fugue (có đặc tính của loại phỏng diễn tay đôi) tác giả sử dụng nhiều quãng ba song song.
Cách tính kiểu Nghịch đảo Đối âm
Xác định quãng nào ở bè trầm sẽ được đảo lên.
Xác định quãng nào ở bè cao sẽ được đảo xuống. Lưu ý: nếu bè nào được dự trù để thay đổi, bè cao sẽ trở nên thấp hơn và ngược lại, khi đó nghịch đảo đối âm không diễn ra được.
Nếu bước một và hai ở từng bát độ riêng, khi đó đối âm kép là một quãng tám. Ngoài ra, lấy kết quả của bước một và hai, trừ cho 1.
Cách tính Quãng sau khi nghịch đảo
Đối âm Kép @8va: Trừ 9 cho quãng nguyên thì tìm được quãng đảo. Thí dụ: quãng bốn đảo thành quãng năm.
Đối âm Kép @10th: Trừ 11 cho quãng nguyên thì tìm được quãng đảo. Thí dụ: quãng bốn đảo thành quãng bảy.
Đối âm Kép @12th: Trừ 13 cho quãng nguyên thì tìm được quãng đảo. Thí dụ: quãng bốn đảo thành quãng chín.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tẩu pháp** (_fugue_) là tiến trình nhạc Phức điệu trong đó một chủ đề được trình bày lúc ban đầu bằng mối tương quan chủ âm/át âm, sau đó được khai triển bằng kỹ thuật
**Hải quân Pháp** (tiếng Pháp: _Marine nationale_), tên gọi không chính thức là **La Royale**, là lực lượng hải quân của Lực lượng Vũ trang Pháp. Được thành lập từ năm 1624, Hải quân Pháp
**Chiến tranh Pháp – Đại Nam** hoặc **chiến tranh Pháp – Việt**, hay còn được gọi là **Pháp xâm lược Đại Nam** là cuộc xung đột quân sự giữa nhà Nguyễn của Đại Nam và
**Lớp tàu tuần dương _La Galissonnière**_ là một nhóm sáu tàu tuần dương hạng nhẹ được đưa vào hoạt động cùng Hải quân Pháp trong những năm 1930. Chúng là những tàu tuần dương Pháp
**_Narval_** là một tàu ngầm lớp _Requin_ được chế tạo cho Hải quân Pháp vào giữa thập niên 1920. Tàu được đặt lườn vào tháng 3 năm 1923, hạ thủy vào tháng 5 năm 1925
**Lớp tàu khu trục _Mogador**_ bao gồm hai tàu khu trục lớn () được Hải quân Pháp đặt lườn vào năm 1935 và đưa ra hoạt động vào năm 1939. Chúng là những tàu khu
**_U-37_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1938, nó đã thực
**Louis XV** (15 tháng 2 năm 1710 – 10 tháng 5 năm 1774), biệt danh **Louis Đáng yêu**, là quân vương của Vương tộc Bourbon, giữ tước hiệu Vua của Pháp từ 1 tháng 9
**Tứ tấu đàn dây, Op. 50** (Hob. III/44–49, L. 36–41), là một tác phẩm sáng tác năm 1787 của nhà soạn nhạc Joseph Haydn. Bộ sáu tác phẩm tứ tấu này được sáng tác dành
**Vũng Tàu** là một thành phố cũ thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, vùng Đông Nam Bộ, Việt Nam. Đây là trung tâm kinh tế, tài chính, văn hóa, du lịch, và là một
nhỏ|phải|[[HMS Hood (51)|HMS _Hood_, tàu chiến-tuần dương lớn nhất từng được chế tạo, lớn hơn mọi thiết giáp hạm Anh Quốc cho đến khi chiếc HMS _Vanguard_ đưa ra hoạt động vào năm 1946. Nó
**_Victor Hugo_** là chiếc cuối cùng cho lớp tàu tuần dương bọc thép _Léon Gambetta_ được Hải quân Pháp chế tạo trong giai đoạn đầu thế kỷ 20. Tàu được hạ thủy vào tháng 3
**Chiến tranh Pháp – Thanh** là cuộc chiến giữa Đệ tam Cộng hòa Pháp và Đế quốc Đại Thanh, diễn ra từ tháng 9 năm 1884 tới tháng 6 năm 1885. Cuộc chiến nổ ra
**Quan hệ Pháp – Việt Nam** (hoặc **Quan hệ Việt–Pháp** hay **Quan hệ Pháp–Việt**) được xem là khởi nguồn từ đầu thế kỷ 17 với công cuộc truyền giáo của các linh mục dòng Tên
**Tàu frigate** () là một loại tàu chiến. Từ ngữ này được dùng cho nhiều tàu chiến với nhiều kích cỡ và vai trò khác nhau trong vài thế kỷ gần đây. Theo vai trò
**Tàu khu trục lớp Kongō** (tiếng Nhật: こんごう型護衛艦) là lớp tàu khu trục mang tên lửa có điều khiển (DDG) đầu tiên của Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF) được chế tạo
nhỏ|Hình ảnh một tàu thủy **Tàu thủy** là một công trình kỹ thuật nổi, có thể chuyển dịch trên mặt nước, hay ngầm dưới nước, theo hướng đã định, với tốc độ cần thiết, và
thumb|upright=1.35| – chiếc dẫn đầu của lớp tàu ngầm SSBN đầu tiên của [[Hải quân Hoa Kỳ. _George Washington_ cũng là tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân đầu tiên có khả năng răn
nhỏ|250x250px|Hàng không mẫu hạm lớn nhất thế giới. Nhân viên điều hành trên tháp quan sát của chiếc [[USS Ronald Reagan của Hoa Kỳ.|thế=]] **Tàu sân bay** (tiếng Anh: _aircraft carrier_), hay **hàng không mẫu
**_Béarn_** là một tàu sân bay độc đáo từng phục vụ Hải quân Pháp (Marine nationale) trong Chiến tranh Thế giới thứ hai và sau đó. Sự lạc hậu vào lúc chiến tranh nổ ra
**_Gloire_** (tiếng Pháp: vinh quang) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Pháp thuộc lớp _La Galissonnière_ bao gồm sáu chiếc được chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Trong
**_Georges Leygues_** là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Pháp thuộc lớp _La Galissonnière_ bao gồm sáu chiếc được chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên của nó được
**_Montcalm_** là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Pháp thuộc lớp _La Galissonnière_ bao gồm sáu chiếc được chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên của nó được đặt
sau này đổi tên là là tàu chiến bọc thép đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Đóng tại Bordeaux, Pháp vào năm 1864 cho Hải quân Liên minh Hoa Kỳ dưới tên
**Tàu khu trục lớp Maya** (**lớp 27DDG,** tiếng Nhật: **まや型護衛艦**) là một biến thể cải tiến của tàu khu trục lớp Atago, đã hoạt động trong biên chế Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật
nhỏ|388x388px|Tàu tuần dương _Frunze_ thuộc [[Tàu tuần dương hạng nặng lớp Kirov|lớp _Kirov_ của Hải quân Nga]] **Tàu tuần dương**, còn được gọi là **tuần dương hạm**, là một loại tàu chiến lớn, có vai
nhỏ|300x300px| nhỏ|upright|Tàu khu trục , một chiếc thuộc của [[Hải quân Hoa Kỳ.]] **Tàu khu trục**, hay còn gọi là **khu trục hạm**, (tiếng Anh: _destroyer_) là một tàu chiến chạy nhanh và cơ động,
**Lớp tàu sân bay _Independence**_ gồm những chiếc tàu sân bay hạng nhẹ được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ để phục vụ trong Thế Chiến II. Dù chỉ là một giải pháp tình
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Admiral**_ là một lớp bao gồm bốn tàu chiến-tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được thiết kế vào lúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất sắp kết thúc.
**_Émile Bertin_** là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Pháp, từng hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai và từng có mặt tại Đông Dương. ## Thiết kế và chế
**_Courbet_** là chiếc dẫn đầu của lớp thiết giáp hạm _Courbet_ bao gồm bốn chiếc, những thiết giáp hạm thế hệ dreadnought đầu tiên được chế tạo cho Hải quân Pháp. Nó được hoàn tất
**_Marseillaise_** là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Pháp thuộc lớp _La Galissonnière_ bao gồm sáu chiếc được chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên của nó được đặt
**_Jean de Vienne_** là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Pháp thuộc lớp _La Galissonnière_ bao gồm sáu chiếc được chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên của nó
**_Somali_ (T-53/F03/F703/A607)** là một tàu frigate của Hải quân Pháp Tự do hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, và tiếp tục phục vụ cùng Hải quân Pháp sau chiến tranh. Nó nguyên
**_Sénégalais_ (T-22/F-702)** là một tàu frigate của Hải quân Pháp Tự do hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, và tiếp tục phục vụ cùng Hải quân Pháp sau chiến tranh. Nó nguyên
thumb|Tàu chở thủy phi cơ [[Pháp _Foudre_]] thumb|, từng phục vụ như một tàu sân bay thủy phi cơ trong hai tháng vào năm 1913 thumb| vào khoảng năm 1918 **Tàu tiếp liệu thủy phi
Tàu ngầm Type XXI là một lớp tàu ngầm diesel-điện của Đức Quốc xã trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. 118 chiếc tàu ngầm loại này đã được chế tạo hoàn thiện nhưng chỉ
**Lịch sử hành chính tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu** có thể lấy mốc từ năm 1900 với sự kiện cuộc cải cách hành chính ở Nam Kỳ, hạt tham biện Bà Rịa đổi thành
**_Algérie_** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Pháp thuộc lớp tàu của riêng nó đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên của nó được đặt theo thuộc
**_Richelieu_** là một thiết giáp hạm của Hải quân Pháp, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó. Nó đã phục vụ trong giai đoạn mở màn của Chiến tranh Thế giới thứ hai theo
**_Jean Bart_** là một thiết giáp hạm của Hải quân Pháp thuộc lớp _Richelieu_. Được đặt tên theo nhà hàng hải và hải quân thế kỷ 17 Jean Bart, nó chỉ mới hoàn tất được
**_Primauguet_** là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Pháp thuộc lớp _Duguay-Trouin_, được chế tạo sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất và bị phá hủy bởi hỏa lực pháo từ chiếc
Tàu tuần dương hạng nặng [[HMS Frobisher (D81)|HMS _Frobisher_ thuộc lớp _Hawkins_, vào khoảng thời gian mà Hiệp ước Hải quân Washington đặt ra những giới hạn cho tàu tuần dương hạng nặng.]] **Tàu tuần
**_Marocain_ (F-5/F-705)** là một tàu frigate của Hải quân Pháp Tự do hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, và tiếp tục phục vụ cùng Hải quân Pháp sau chiến tranh. Nó nguyên
**_Hova_ (F-4/F-704)** là một tàu frigate của Hải quân Pháp Tự do hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, và tiếp tục phục vụ cùng Hải quân Pháp sau chiến tranh. Nó nguyên
**_Tunisien_ (T23, F706)** là một tàu frigate của Hải quân Pháp Tự do hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, và tiếp tục phục vụ cùng Hải quân Pháp sau chiến tranh. Nó
**_Algérien_ (F-1/F-701)** là một tàu frigate của Hải quân Pháp Tự do hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, và tiếp tục phục vụ cùng Hải quân Pháp sau chiến tranh. Nó nguyên
Mô hình tàu chiến Đại Hiệu của thủy quân [[Nhà Tây Sơn|Tây Sơn trong trận Rạch Gầm-Xoài Mút]] **Tàu chiến** là danh xưng thường dùng trong tiếng Việt theo nghĩa rộng để chỉ các loại
**_Dupleix_** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Pháp thuộc lớp _Suffren_ đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Pháp được
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Indefatigable**_ là lớp tàu chiến-tuần dương thứ hai của Anh Quốc, đã phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh và Hải quân Hoàng gia Australia trong Chiến tranh Thế giới