✨Courbet (thiết giáp hạm Pháp) (1911)
Courbet là chiếc dẫn đầu của lớp thiết giáp hạm Courbet bao gồm bốn chiếc, những thiết giáp hạm thế hệ dreadnought đầu tiên được chế tạo cho Hải quân Pháp. Nó được hoàn tất trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất như một phần của Chương trình Phát triển Hải quân 1911, và được đặt tên nhằm tôn vinh Đô đốc Amédée Courbet. Nó trải qua Thế Chiến I tại Địa Trung Hải, góp phần vào việc đánh chìm tàu tuần dương bảo vệ Áo-Hung SMS Zenta vào tháng 8 năm 1914, rồi trải qua thời gian còn lại của cuộc chiến tranh tiến hành cuộc Phong tỏa Otranto nhằm cô lập lực lượng Hải quân Áo-Hung trong biển Adriatic. Mặc dù được nâng cấp nhiều lần trước Chiến tranh Thế giới thứ hai, nó vẫn không được xem là một thiết giáp hạm hàng đầu, và đã trải qua hầu hết thời gian giữa hai cuộc thế chiến trong vai trò một tàu huấn luyện tác xạ.
Với việc Đức xâm chiếm Pháp bắt đầu vào ngày 10 tháng 5 năm 1940, Courbet được vội vã tái vũ trang. Nó đã hỗ trợ cho lực lượng Đồng Minh vào việc phòng thủ Cherbourg trong tháng 6, và đến cuối tháng đã tháo chạy sang Anh Quốc. Như một phần của Chiến dịch Catapult, nó bị lực lượng Anh chiếm vào ngày 3 tháng 7 tại Portsmouth, rồi chuyển cho lực lượng Pháp Tự Do một tuần sau đó. Nó được sử dụng tại đây như một tàu kho chứa và một tàu phòng không cho đến ngày 31 tháng 3 năm 1941, khi nó được giải giáp. Động cơ và nồi hơi được tháo dỡ vào năm 1944 nhằm chuẩn bị cho việc sử dụng nó như một đê chắn sóng trong cuộc đổ bộ vào Normandy vào tháng 6 năm 1944. Sau chiến tranh nó được tháo dỡ ngay tại chỗ.
Thiết kế và chế tạo
Thiết kế
trái|Sơ đồ mạn phải và sàn tàu của lớp Courbet như được mô tả trong Niên giám Hải quân Brassey 1912 Courbet có chiều dài chung ; bề rộng mạn thuyền ; và có mớn nước ở mũi tàu khi đầy tải. Nó có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn và khi đầy tải. Nó tỏ ra bị ướt khi hoạt động, bị nặng phần mũi tàu do những tháp pháo bắn thượng tầng phía trước.
Courbet có hệ thống động cơ bao gồm bốn turbine hơi nước Parsons dẫn động trực tiếp công suất . Nó có 24 nồi hơi ống nước Niclausse đốt than có phun dầu bổ trợ. Nó dự định có tốc độ thiết kế tối đa , Để phòng thủ chống lại tàu phóng lôi, nó mang theo 22 khẩu hải pháo 138 mm Modèle 1910 bố trí trên các ụ tháp pháo. Bốn khẩu pháo Hotchkiss Modèle 1902 được trang bị, gồm hai khẩu mỗi bên mạn. Courbet còn được trang bị bốn ống phóng ngư lôi ngầm Modèle 1909 và mang theo 12 quả ngư lôi.
Chế tạo
Courbet được chế tạo tại Xưởng vũ khí Lorient tại Lorient, được đặt lườn vào ngày 1 tháng 9 năm 1910, được hạ thủy vào ngày 23 tháng 9 năm 1911. Nó được hoàn tất vào ngày 19 tháng 11 năm 1913 và đã hoàn tất việc chạy thử máy trước khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra. Lapeyrère quyết định càn quét ngay vào biển Adriatic gây bất ngờ cho những con tàu Áo đang tiến hành phong tỏa Montenegro. Liên quân Anh-Pháp, trong đó có cả con tàu chị em Jean Bart, đã thành công trong việc cắt ngang và đánh chìm tàu tuần dương bảo vệ Áo-Hung SMS Zenta trong Trận Antivari ngoài khơi Bar vào ngày 16 tháng 8 năm 1914, mặc dù chiếc tàu khu trục theo hộ tống đã tìm cách chạy thoát.
Courbet trải qua hầu hết thời gian còn lại của năm 1914 bắn pháo hỗ trợ cho quân đội Montenegro cho đến khi tàu ngầm Áo-Hung SMU U-12 bắn một quả ngư lôi trúng Jean Bart vào ngày 21 tháng 12 năm 1914 ngoài khơi đảo Sazan.
Trước khi chiến tranh kết thúc, Courbet được trang bị bổ sung bảy khẩu pháo phòng không Modèle 1918 trên các bệ nòng đơn. Những khẩu pháo này được thích ứng từ kiểu pháo dã chiến Modèle 97 75-mm.
Giữa hai cuộc thế chiến
Courbet trở thành soái hạm của Phó Đô đốc Charlier từ ngày 6 tháng 6 năm 1919 đến ngày 20 tháng 10 năm 1920. Nó trở thành một tàu huấn luyện tác xạ tại Toulon vào năm 1921, nhưng mắc phải một đám cháy nồi hơi nghiêm trọng vào tháng 6 năm 1923, Courbet còn chịu một đám cháy nồi hơi khác vào tháng 18 năm 1924 và phải vào ụ tàu cho đến hết năm đó, trước khi quay trở lại vai trò tàu huấn luyện tác xạ. Các khẩu pháo 75 mm có khả năng hạ tối đa đến góc 10° và nâng tối đa đến 90°, bắn ra đạn pháo ở lưu tốc đầu đạn và một tốc độ bắn 8–18 phát mỗi phút; trần bắn hiệu quả tối đa là .
Courbet được chuyển từ tàu huấn luyện tác xạ sang tàu huấn luyện hoa tiêu vào năm 1937, trước khi trải qua đợt tái trang bị cuối cùng trước chiến tranh từ tháng 4 năm 1937 đến tháng 9 năm 1938, tháo dỡ các ống phóng ngư lôi và đại tu các nồi hơi.
Chiến tranh Thế giới thứ hai
Courbet và con tàu chị em Paris hình thành nên Hải đội 5 vào lúc bắt đầu chiến tranh. Chúng được chuyển sang Đại Tây Dương để tiếp tục các nhiệm vụ huấn luyện mà không bị ảnh hưởng bởi tình hình chiến sự. Cả hai được lệnh của Đô đốc Mord chuyển sang tình trạng sẵn sàng chiến đấu vào ngày 21 tháng 5 năm 1940, và dàn hỏa lực phòng không của chúng được bổ sung sáu khẩu đội súng máy Hotchkiss 13,2 mm hai nòng và hai súng máy Browning 13,2 mm nòng đơn tại Cherbourg. Courbet được lệnh hỗ trợ hỏa lực cho lực lượng phòng thủ Cherbourg chống lại Sư đoàn Xe tăng 7 Đức đang tiến quân, và hỗ trợ cho việc triệt thoái lực lượng đồng Minh khỏi thị trấn này, cho dù việc thiếu sót một máy bay trinh sát khiến cho nó không mấy hiệu quả trong vai trò này.
Courbet lên đường đi Portsmouth vào ngày 20 tháng 6, và bị chiếm giữ vào ngày 3 tháng 7 như một phần của Chiến dịch Catapult, một nỗ lực của Thủ tướng Anh Winston Churchill nhằm ngăn chặn việc Đức chiếm hữu Hạm đội Pháp. Nó được chuyển cho phe Pháp Tự do một tuần sau đó, để được sử dụng như một tàu kho chứa và tàu phòng không tại Portsmouth cho đến ngày 31 tháng 3 năm 1941 khi nó được giải giáp. Nó tiếp tục phục vụ như một tàu kho và tàu mục tiêu cho đến khi bị đánh đắm như một đê chắn sóng cho cảng Mulberry tại bãi Sword trong trận Normandy. Nó được đánh chìm tại chỗ vào ngày 9 tháng 6 và bị các ngư lôi có người lái Neger đánh trúng trong các đêm 15–16 tháng 8 và 16–17 tháng 8. Nó được tháo dỡ tại chỗ sau chiến tranh.