✨Independence (lớp tàu sân bay)

Independence (lớp tàu sân bay)

Lớp tàu sân bay _Independence_ gồm những chiếc tàu sân bay hạng nhẹ được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ để phục vụ trong Thế Chiến II. Dù chỉ là một giải pháp tình thế đối phó vấn đề thiếu hụt tàu sân bay vào đầu cuộc chiến, chúng cũng góp phần đáng kể vào chiến thắng của Đồng Minh. Do những hạn chế rõ ràng về cấu trúc và khả năng, chúng hầu như được cho ngừng hoạt động không lâu sau khi chiến tranh kết thúc, ngoại trừ ba chiếc được chuyển cho Pháp và Tây Ban Nha sử dụng. Chiếc cuối cùng được cho ngừng hoạt động vào năm 1989 và được cho tháo dỡ vào năm 2000.

Thiết kế và chế tạo

Sự hình thành lớp này là do mối quan tâm của Tổng thống Franklin D. Roosevelt đối với các kế hoạch đóng tàu của Hải quân Mỹ. Vào tháng 8 năm 1941, khi nguy cơ chiến tranh bắt đầu ló dạng, ông đã lưu ý đến việc không có chiếc tàu sân bay hạm đội mới nào có thể sẵn sàng trước năm 1944; và đề nghị phải nhanh chóng cải biến một số tàu tuần dương đang được chế tạo thành tàu sân bay. Việc nghiên cứu tính năng những chiếc tàu sân bay kích cỡ tàu tuần dương đã bộc lộ ra nhiều hạn chế nghiêm trọng, nhưng tình thế nguy cấp sau vụ quân Nhật tấn công Trân Châu Cảng vào tháng 12 năm 1941 cho thấy nhu cầu cần phải có nhiều tàu sân bay càng nhanh càng tốt. Hải quân đã đáp ứng bằng cách đẩy nhanh tiến độ chế tạo các tàu sân bay lớn thuộc lớp Essex, và vào tháng 1 năm 1942, yêu cầu chuyển đổi một tàu tuần dương thuộc lớp Cleveland thành một tàu sân bay hạng nhẹ.

Kế hoạch phát triển cho việc cải biến này tỏ ra có nhiều hứa hẹn hơn mong đợi, và đã có thêm hai chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ khác được tái cấu trúc thành tàu sân bay vào tháng 2, ba chiếc trong tháng 3 và ba chiếc cuối cùng vào tháng 6 năm 1942.

Thiết kế lớp Independence bao gồm cả sàn đáp máy bay cùng sàn chứa máy bay tương đối ngắn và hẹp, với một đảo cấu trúc thượng tầng nhỏ. Để bù trừ cho trọng lượng nặng bên trên, những miếng ghép được bổ sung thêm vào thân tàu tuần dương, khiến cho nó dài hơn thân tàu nguyên thủy 1,5 m (5 ft). Lực lượng không quân phối thuộc ban đầu được dự định có máy bay tiêm kích, máy bay ném bom-tuần tiễu và máy bay ném ngư lôi với chín chiếc mỗi kiểu; sau được định hướng lại gồm khoảng hai tá máy bay tiêm kích và chín máy bay ném ngư lôi.

Đây là những con tàu có khả năng giới hạn, với công dụng chủ yếu là sự có mặt sẵn sàng trước mắt và tốc độ nhanh cần thiết để hoạt động cùng các đội đặc nhiệm tàu sân bay nhanh. Kích thước nhỏ khiến cho đặc tính đi biển khơi kém và tỉ lệ tai nạn máy bay tương đối cao. Việc bảo vệ chúng chỉ ở mức tối thiểu, bom đạn đôi khi phải được cất trong sàn chứa máy bay, một yếu tố góp phần rất lớn vào việc mất chiếc Princeton vào tháng 10 năm 1944.

Hoạt động

Được hoàn tất từ tháng 1 đến tháng 12 năm 1943, đồng thời với tám chiếc tàu sân bay hạng nặng đầu tiên của lớp Essex, chín chiếc của lớp Independence là một lực lượng thiết yếu trong các chiến dịch tấn công lớn trải suốt khu vực Trung và Tây Thái Bình Dương từ tháng 11 năm 1943 đến tháng 8 năm 1945. Tám chiếc trong số chúng đã tham gia Trận chiến biển Philippine vào tháng 6 năm 1944, cung cấp 40% số máy bay tiêm kích và 36% số máy bay ném ngư lôi tham gia trận đánh, góp phần vào việc vô hiệu hóa lực lượng không quân của hạm đội tàu sân bay Nhật.

Kết thúc

nhỏ|trái|Cabot tại New Orleans, [[1995.]] Independence kết thúc hoạt động như một mục tiêu thử nghiệm bom nguyên tử, trong khi số còn lại được cho ngừng hoạt động vào năm 1947. Năm chiếc quay trở lại phục vụ trong giai đoạn 1948-1953, trong đó hai chiếc hoạt động trong Hải quân Pháp. Hai chiếc được dùng như những tàu sân bay huấn luyện, trong khi Bataan hoạt động trong Chiến tranh Triều Tiên cùng không lực Thủy quân Lục chiến. Nó và Cabot được hiện đại hóa với những thiết bị chống tàu ngầm vào đầu những năm 1950, cải biến lại chỉ với hai ống khói thay vì bốn. Tất cả, ngoại trừ những chiếc chuyển cho Pháp, được cho ngưng hoạt động trong những năm 1954-1956 và được xếp lại lớp thành những tàu vận chuyển máy bay vào năm 1959. Cabot có một sức sống mới vào năm 1967, khi nó trở thành tàu sân bay Dédalo của Hải quân Tây Ban Nha và phục vụ tại nước này cho đến năm 1989. Trong giai đoạn này, nó là chiếc tàu sân bay đầu tiên được bố trí thường trực kiểu máy bay cất cánh thẳng đứng Harrier. Cho dù có những nỗ lực rất lớn để cố bảo quản con tàu, Cabot vẫn bị tháo dỡ tại Brownsville, Texas bắt đầu từ năm 1999 và kết thúc vào năm 2003.

Những chiếc trong lớp

nhỏ|phải|USS Princeton CVL-23 phải|nhỏ|USS Belleau Wood CVL-24 phải|nhỏ|USS Cowpens CVL-25 phải|nhỏ|USS Monterey CVL-26 Chín chiếc trong lớp Independence đều được cải biến từ những tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp Cleveland và cùng được chế tạo tại xưởng tàu New York Shipbuilding Corporation, Camden, New Jersey. Thoạt tiên được xếp lớp như là "tàu sân bay" (CV), tất cả được xếp lại thành "tàu sân bay hạng nhẹ" (CVL) vào ngày 15 tháng 7 năm 1943 trong khi có bốn chiếc còn đang được chế tạo.

  • Independence (CVL-22). Được đặt lườn vào tháng 5 năm 1941 như tàu tuần dương Amsterdam (CL-59); nó được xếp lại lớp thành một tàu sân bay vào tháng 1 năm 1942; hạ thủy vào tháng 8 năm 1942 và đưa ra hoạt động vào tháng 1 năm 1943. Sau chiến tranh, Independence tỏ ra dư thừa đối với nhu cầu của Hải quân Mỹ và được dùng thử nghiệm bom nguyên tử trong chiến dịch Crossroads vào tháng 7 năm 1946, nhưng vẫn sống sót sau cả hai vụ nổ với hư hại nhẹ. Nó được sử dụng để khảo sát sự nhiễm xạ thân tàu, rồi sau đó bị đánh chìm như một mục tiêu tác xạ vào tháng 1 năm 1951.
  • Princeton (CVL-23). Được đặt lườn vào tháng 6 năm 1941 như tàu tuần dương Tallahassee (CL-61); nó được xếp lại lớp thành một tàu sân bay vào tháng 2 năm 1942; hạ thủy vào tháng 10 năm 1942 và đưa ra hoạt động vào tháng 2 năm 1943. Princeton bị máy bay Nhật đánh chìm ngày24 tháng 10 năm 1944 trong Trận chiến vịnh Leyte.
  • Belleau Wood (CVL-24). Được đặt lườn vào tháng 8 năm 1941 như tàu tuần dương New Haven (CL-76); nó được xếp lại lớp thành một tàu sân bay vào tháng 2 năm 1942; hạ thủy vào tháng 12 năm 1942 và đưa ra hoạt động vào tháng 3 năm 1943. Belleau Wood được cho ngừng hoạt động và chuyển về lực lượng dự bị vào tháng 1 năm 1947; được chuyển cho Pháp vào tháng 6 năm 1951 và hoạt động dưới tên gọi Bois Belleau (R97) trong Hải quân Pháp. Được trao trả về Mỹ để tháo dỡ vào tháng 9 năm 1960.
  • Cowpens (CVL-25). Được đặt lườn vào tháng 11 năm 1941 như tàu tuần dương Huntington (CL-77); nó được xếp lại lớp thành một tàu sân bay vào tháng 3 năm 1942; hạ thủy vào tháng 1 năm 1943 và đưa ra hoạt động vào tháng 5 năm 1943. Cowpens được cho ngừng hoạt động và chuyển về lực lượng dự bị vào tháng 1 năm 1947; được rút khỏi Đăng bạ Hải quân và cho tháo dỡ bắt đầu vào tháng 11 năm 1959.
  • Monterey (CVL-26). Được đặt lườn vào tháng 11 năm 1941 như tàu tuần dương Dayton (CL-78); nó được xếp lại lớp thành một tàu sân bay vào tháng 3 năm 1942; hạ thủy vào tháng 2 năm 1943 và đưa ra hoạt động vào tháng 6 năm 1943. Monterey được cho ngừng hoạt động và chuyển về lực lượng dự bị vào tháng 2 năm 1947; được cho tái hoạt động như một tàu sân bay huấn luyện vào tháng 9 năm 1950; được cho ngừng hoạt động một lần nữa vào tháng 1 năm 1956; được xếp lại lớp thành một tàu vận chuyển máy bay AVT-2 vào tháng 5 năm 1959 và rút khỏi Đăng bạ Hải quân vào tháng 6 năm 1970.
  • Langley (CVL-27). Ban đầu được đặt hàng như tàu tuần dương Fargo (CL-85); nó được xếp lại lớp thành một tàu sân bay vào tháng 3 năm 1942; đặt lườn vào tháng 4 năm 1942; tên được đổi từ Crown Point thành Langley vào tháng 11 năm 1942; hạ thủy vào tháng 5 năm 1943 và đưa ra hoạt động vào tháng 8 năm 1943. Langley được cho ngừng hoạt động và chuyển về lực lượng dự bị vào tháng 2 năm 1947; được chuyển cho Pháp ngày 2 tháng 6 năm 1951 và hoạt động dưới tên gọi La Fayette (R96) trong Hải quân Pháp. Được trao trả về Mỹ và rút khỏi Đăng bạ Hải quân vào tháng 3 năm 1963; được tháo dỡ tại Baltimore vào năm 1964.
  • Cabot (CVL-28). Được đặt lườn vào tháng 3 năm 1942 như tàu tuần dương Wilmington (CL-79); nó được xếp lại lớp thành một tàu sân bay vào tháng 6 năm 1942; hạ thủy vào tháng 4 năm 1943 và đưa ra hoạt động vào tháng 7 năm 1943. Cabot được cho ngừng hoạt động và chuyển về lực lượng dự bị vào tháng 2 năm 1947; được cho tái hoạt động và hiện đại hóa thành một tàu sân bay chống tàu ngầm (ASW) vào tháng 10 năm 1948. Được cho ngừng hoạt động vào tháng 1 năm 1955, được hiện đại hóa trong những năm 1965- 1967 và chuyển cho Tây Ban Nha như tàu sân bay Dédalo (R01) vào ngày 30 tháng 8 năm 1967. Được rút khỏi Đăng bạ Hải quân Hoa Kỳ và bán cho Tây Ban Nha vào tháng 8 năm 1972. Được cho ngừng hoạt động để bảo tồn tại New Orleans vào tháng 8 năm 1989. Sau khi các nỗ lực giữ lại con tàu bị thất bại, nó được tháo dỡ tại Brownsville, Texas bắt đầu từ tháng 10 năm 2000.
  • Bataan (CVL-29). Ban đầu được đặt hàng như tàu tuần dương Buffalo (CL-99); nó được xếp lại lớp thành một tàu sân bay vào tháng 6 năm 1942; đặt lườn vào tháng 8 năm 1942; hạ thủy vào tháng 8 năm 1943 và đưa ra hoạt động vào tháng 11 năm 1943. Bataan được cho ngừng hoạt động và chuyển về lực lượng dự bị vào tháng 2 năm 1947; được cho tái hoạt động và hiện đại hóa thành một tàu sân bay chống tàu ngầm (ASW) vào tháng 5 năm 1950. Nó được cho ngừng hoạt động lần cuối cùng vào tháng 4 năm 1954 và rút khỏi đăng bạ hải quân để tháo dỡ vàotháng 9 năm 1959.
  • San Jacinto (CVL-30). Ban đầu được đặt hàng như tàu tuần dương Newark (CL-100); nó được xếp lại lớp thành một tàu sân bay vào tháng 6 năm 1942; đặt lườn vào tháng 10 năm 1942; tên được đổi từ Reprisal thành San Jacinto vào tháng 1 năm 1943; hạ thủy vào tháng 9 năm 1943 và đưa ra hoạt động vào tháng 12 năm 1943. San Jacinto được cho ngừng hoạt động và chuyển về lực lượng dự bị vào tháng 3 năm 1947. Nó được rút khỏi đăng bạ hải quân vàotháng 6 năm 1970.
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lớp tàu sân bay _Independence**_ gồm những chiếc tàu sân bay hạng nhẹ được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ để phục vụ trong Thế Chiến II. Dù chỉ là một giải pháp tình
**Lớp tàu sân bay _Saipan**_ bao gồm hai tàu sân bay hạng nhẹ, được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ, và đã phục vụ không lâu sau Chiến tranh Thế giới thứ hai cho
**Lớp tàu sân bay _Forrestal**_ là một lớp bao gồm bốn chiếc tàu sân bay được thiết kế và chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ vào thập niên 1950. Đây là lớp đầu tiên
**_Essex_** là một lớp tàu sân bay của Hải quân Hoa Kỳ, vốn đưa ra số lượng tàu chiến hạng nặng với số lượng nhiều nhất trong thế kỷ 20, với tổng cộng 24 tàu
**Lớp _Casablanca**_ là lớp tàu sân bay hộ tống với số lượng tàu sân bay lớn nhất từng được chế tạo, với năm mươi chiếc được đặt lườn, hạ thủy và nhập biên chế trong
**Lớp tàu sân bay _Kitty Hawk**_ bao gồm bốn siêu hàng không mẫu hạm được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong thập niên 1960. Với thiết kế được cải tiến dựa trên lớp tàu
nhỏ|300x300px|[[Hàng không mẫu hạm Ý Giuseppe Garibaldi]] **Tàu sân bay hạng nhẹ** hay **tàu sân bay hạng nhẹ hạm đội** là một kiểu tàu sân bay nhỏ hơn tàu sân bay tiêu chuẩn trong hải
nhỏ|250x250px|Hàng không mẫu hạm lớn nhất thế giới. Nhân viên điều hành trên tháp quan sát của chiếc [[USS Ronald Reagan của Hoa Kỳ.|thế=]] **Tàu sân bay** (tiếng Anh: _aircraft carrier_), hay **hàng không mẫu
**USS _Independence_ (CV/CVA-62)** là một tàu sân bay của Hải quân Hoa Kỳ. Nó là chiếc thứ tư, cũng là chiếc cuối cùng, của lớp siêu hàng không mẫu hạm _Forrestal_ chạy bằng năng lượng
**USS _Independence_ (CV-22/CVL-22)** là một tàu sân bay hạng nhẹ của Hải quân Hoa Kỳ, là tàu chiến thứ tư của Hải quân Mỹ mang cái tên này, và là chiếc dẫn đầu trong lớp
**_Ibuki_** (tiếng Nhật: 伊吹) là chiếc tàu tuần dương hạng nặng cuối cùng được đặt tên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Được đặt lườn vào năm 1942 và hạ thủy vào năm 1943,
**Lớp tàu tuần dương _Cleveland**_ là một lớp tàu tuần dương hạng nhẹ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, và là lớp tàu tuần dương hạng nhẹ
**Tàu ngầm lớp _Balao**_ là một thiết kế tàu ngầm hạm đội thành công của Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Với 120 chiếc được hoàn tất và đưa vào
**USS _Kitty Hawk_ (CVA-63/CV-63)** là một siêu hàng không mẫu hạm của Hải quân Hoa Kỳ. Nó là chiếc đầu tiên trong số bốn chiếc của lớp tàu sân bay mang tên nó nhập biên
**USS _San Jacinto_ (CVL-30)** là một tàu sân bay hạng nhẹ của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _Independence_, và là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ mang cái tên này. Hoạt
Bảy tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt tên **USS _Independence**_, cái tên phản ánh khát vọng tự do khỏi sự đô hộ của các thế lực khác. *USS _Independence_ (brigantine 1776)
**USS _Wasp_ (CV-7)** là một tàu sân bay của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai. Là chiếc tàu chiến thứ tám của Hoa Kỳ được đặt cái tên
**_Tama_** (tiếng Nhật: 多摩) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Kuma_ từng hoạt động cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên của nó được
**USS _Princeton_ (CVL-23)** là một tàu sân bay hạng nhẹ của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _Independence_ được đưa ra hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến
**USS _Saratoga_ (CV-3)** là chiếc tàu chiến thứ năm trong lịch sử Hải quân Hoa Kỳ được mang tên **Saratoga**, tên đặt theo trận chiến Saratoga quan trọng trong cuộc Chiến tranh giành độc lập
**Lớp thiết giáp hạm _North Carolina**_ là một lớp bao gồm hai thiết giáp hạm, _North Carolina_ và _Washington_, được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ vào cuối thập niên 1930 và đầu thập
**USS _Alaska_ (CB–1)**, chiếc tàu thứ ba của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo vùng quốc hải lúc đó và tiểu bang hiện nay, là chiếc dẫn đầu của lớp _Alaska_ vốn dự
**_Cabot_ (CVL-28/AVT-3)** là một tàu sân bay hạng nhẹ thuộc lớp _Independence_ của Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, và là chiếc tàu chiến thứ hai mang cái tên này.
**USS _Cowpens_ (CV-25/CVL-25/AVT-1)**, tên lóng _The Mighty Moo_, là một tàu sân bay hạng nhẹ thuộc lớp _Independence_ của Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, đã hoạt động từ năm
**USS _Monterey_ (CVL-26)** là một tàu sân bay hạng nhẹ thuộc lớp _Independence_ của Hải quân Hoa Kỳ được đưa ra hoạt động trong Thế Chiến II. Sang giai đoạn Chiến tranh Triều Tiên, nó
**USS _Belleau Wood**_ là một tàu sân bay hạng nhẹ của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _Independence_ từng hoạt động trong Thế Chiến II. Tên nó được đặt theo trận Belleau Wood trong Thế
thumb|upright=1.0|Tàu hộ tống khu trục USS _Evarts_ của [[Hải quân Hoa Kỳ]] **Tàu hộ tống khu trục** (tiếng Anh: destroyer escort, ký hiệu lườn **DE**) là một định danh của Hải quân Hoa Kỳ vào
**USS _Bataan_ (CVL-29/AVT-4)** là một tàu sân bay hạng nhẹ tải trọng 11.000 tấn thuộc lớp _Independence_ được Hải quân Hoa Kỳ đưa vào sử dụng trong Chiến tranh thế giới 2. Bataan là tên
**USS _Langley_ (CVL-27)** là một tàu sân bay hạng nhẹ thuộc lớp _Independence_ từng phục vụ trong Hải quân Hoa Kỳ từ năm 1943 đến năm 1947, và trong Hải quân Pháp dưới cái tên
**Global Combat Ship** (**GCS**), còn được biết với tên gọi **Type 26 Global Combat Ship**, hoặc đơn giản hơn là **Type 26** , **GCS**, là một kiểu tàu chiến được thiết kế theo đặt hàng
Ba tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt tên **USS _San Jacinto**_, theo tên trận San Jacinto tại Texas vào năm 1836; Hải quân Mỹ cũng từng dự định sở hữu một
**Tàu con thoi**, là một hệ thống tàu vũ trụ quỹ đạo thấp có thể tái sử dụng, được vận hành bởi Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Hoa Kỳ (NASA). Tên chính thức
**USS _Ringgold_ (DD-500)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**USS _Washington_ (BB-56)**, chiếc thiết giáp hạm thứ hai trong lớp _North Carolina_ vốn chỉ bao gồm hai chiếc, là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này
**USS _Nevada_ (BB-36)** (tên lóng: "Cheer Up Ship"), chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt theo tên của tiểu bang thứ 36 của Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong
Sáu tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt tên **USS _Princeton**_, theo tên thị trấn Princeton, New Jersey, địa điểm của một chiến thắng trong Chiến tranh Cách mạng Hoa Kỳ. *
Ba tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt tên **USS _Cabot**_, theo tên nhà tháp hiểm John Cabot: * USS __Cabot'' (1775) là một tàu brigantine 14 khẩu pháo được mua năm
Bốn tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt tên **USS _Monterey**_: * USS _Monterey_ (1862) là một tàu kéo chân vịt hoạt động tại vịnh San Francisco từ năm 1863 đến năm
Ba tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt tên **USS Langley**, theo tên của Samuel Pierpont Langley, người tiên phong trong lĩnh vực hàng không Hoa Kỳ: * USS _Langley_ (CV-1) là
Ba tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt cái tên **USS _Huntington**_ nhằm tôn vinh thành phố Huntington thuộc tiểu bang West Virginia: * _Huntington_ (CA-5) là tên đặt lại cho chiếc
Hai tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt cái tên **USS _Fargo**_ nhằm tôn vinh thành phố Fargo thuộc tiểu bang North Dakota: * _Fargo_ (CL-85) nguyên được đặt lườn như một
Hai tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt cái tên **USS _Dayton**_, theo tên thành phố Dayton thuộc tiểu bang Ohio: * USS _Dayton_ (CL-78) dự định là một tàu tuần dương
Hai tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt cái tên **USS _Amsterdam**_, theo tên thành phố Amsterdam thuộc tiểu bang New York: * USS _Amsterdam_ (CL-59) nguyên là một tàu tuần dương
Hai tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt tên **USS _Belleau Wood**_, theo tên của Trận Belleau Wood gần Château-Thierry tại Pháp. * USS _Belleau Wood_ (CVL-24) là một tàu sân bay
Hai tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt tên **USS _Bataan**_, theo tên bán đảo Bataan, nơi diễn ra cuộc kháng cự của quân Mỹ tại Philippines năm 1942. * USS _Bataan_
Hai tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt tên **USS _Cowpens**_, theo tên của Trận Cowpens của cuộc Chiến tranh Cách mạng Hoa Kỳ. * USS _Cowpens_ (CVL-25) là một tàu sân
**Hải quân Hoa Kỳ** (viết tắt: **USN**) là một quân chủng của Quân đội Hoa Kỳ và là một trong tám lực lượng vũ trang chuyên nghiệp của Hoa Kỳ. Tính đến năm 2018, Hải
Tàu _USS Freedom_ (LCS-1) là chiếc dẫn đầu của loại Tàu Tác chiến Ven biển thuộc lớp Freedom. Nó là con tàu thứ ba của Hải Quân Hoa Kỳ được đặt tên theo khái niệm
**Trận Midway** là một trận hải chiến quan trọng trong thế chiến thứ hai tại chiến trường Thái Bình Dương, diễn ra ngày từ ngày 4 tháng 6 – 7 tháng 6 năm 1942. Hai
**USS _Thatcher_ (DD–162)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau được chuyển cho Hải quân Hoàng gia Canada và