nhỏ|[[HMS Victory|HMS Victory năm 1884, mẫu còn lại duy nhất của tàu chiến tuyến]]
Tàu chiến tuyến (tiếng Anh:ship of the line) là loại tàu chiến hoạt động trên biển được chế tạo từ thế kỷ 17 cho đến giữa thế kỷ 19. Trong các trận thủy chiến ở thời kỳ này, hai bên bố trí tàu của mình thành hai hàng dọc song song. Trong lúc tham chiến, hai hàng này được di chuyển ngược chiều nhau để tận dụng tối đa hỏa lực trên mạn tàu để tiêu diệt quân địch. Vì thế phần thắng luôn luôn thuộc về bên được trang bị những chiếc tàu lớn với hỏa lực mạnh.
Từ cuối thập niên 1840, sự xuất hiện của động cơ hơi nước đã làm giảm sự phụ thuộc của các trận chiến vào gió và dẫn tới việc chế tạo ra những chiếc tàu chiến tuyến được trang bị chân vịt nhưng vỏ làm bằng gỗ; đồng thời một số lượng lớn tàu buồm đã được chuyển đổi sang động cơ đẩy loại này. Tuy nhiên, sự ra đời của tàu frigate được bọc thép vào năm 1859 đã nhanh chóng dẫn tới sự lụi tàn của những chiếc tàu chiến tuyến được trang bị động cơ hơi nước. Mặc dù những chiếc tàu frigate được xem là tiền thân của những tàu chiến của thế kỉ 20, nhưng danh tiếng của những chiếc tàu [chiến] tuyến (ship-of-the-line) tự thân nó đã là sự rút gọn của cụm từ 'tàu chiến tuyến' (line-of-battle ship).
Lịch sử
Tiền thân
nhỏ|HMS [[HMS Sovereign of the Seas|Sovereign of the Seas, a contemporaneous engraving by J.Payne]]
Nguồn gốc của những chiếc tàu chiến tuyến có thể được tìm thấy ở những chiếc tàu lớn được đóng bởi người Anh trong thế kỷ 15 và 16, hay là những chiếc thuyền buồm đóng bởi người Bồ Đào Nha và các thuyền buồm lớn hơn được đóng bởi các quốc gia châu Âu trong cùng thời kỳ. Tất cả các loại tàu này đều bắt nguồn từ loại tàu buồm nhỏ chỉ với một cột buồm vốn được sử dụng để giao thương giữa các quốc gia vùng Biển Bắc hay biển Baltic. Ban đầu người ta sử dụng những tàu mái chèo bằng cách nâng phần boong ở đuôi và mũi tàu gọi là thượng tầng (tiếng Anh castle), trên đó bố trí những cung thủ để tiêu diệt tàu kẻ thù. Dần dà, thượng tầng được thiết kế ngày một lớn hơn và rộng hơn, định hình cấu trúc sức mạnh tổng thể của tàu chiến.
Tàu Mary Rose là chiếc thuyền buồm đầu tiên có khả năng sử dụng hỏa lực tối đa từ cả hai mạn tàu, tàu được trang bị với 78 khẩu đại bác (91 sau lần nâng cấp năm 1536). Chiếc Mary Rose được đóng ở Portsmouth, nước Anh (1509–1510), và được đặt theo tên của người chị Vua Henry VIII và biểu tượng hoa hồng của vương triều Tudor. Đây là một trong những con tàu đầu tiên được chế tạo hoàn toàn cho mục đích chiến đấu của Hải quân Anh. Tàu có trọng lượng nước rẽ là 500 tấn (700 tấn sau lần nâng cấp năm 1536), dài 126 feet (38.5 m), rộng 38 feet (11.7 m), cùng với thủy thủ đoàn gồm 200 thủy thủ, 185 binh lính, 30 khẩu đại bác. Mặc dù đây là niềm tự hào của hạm đội Anh, nhưng Mary Rose đã bị lật úp trong một trận chạm trán với quân Pháp vào 19 tháng 7 1545.
Chiếc Henri Grâce à Dieu (tiếng Pháp, "Henry Grace of God"), thường được biết đến với tên "Great Harry" là một chiếc tàu buồm của Anh ở thế kỷ 16. Đây được coi là câu trả lời của Vua Henry VIII đối với tàu Michael của Scotland được đóng năm 1511. Tàu được đóng ở Woolwich Dockyard từ 1512 đến 1514 và là chiếc tàu đầu tiên có cửa hầm đại bác, trang bị của tàu gồm 20 khẩu đại bác bằng đồng chỉ có thể bắn từ một bên mạn tàu. Tổng cộng có 43 khẩu đại bác và 141 đại bác loại nhẹ. Khi được hạ thủy Henri Grâce à Dieu là chiếc tàu Anh hai boong đầu tiên, đồng thời là chiếc tàu lớn nhất và mạnh mẽ nhất châu Âu. Tuy nhiên những chiếc tàu lớn như Henri Grâce à Dieu được biết đến vì họa tiết trang trí trên tàu hơn là uy lực, tàu chỉ nhiều lần xuất hiện với tư cách ngoại giao so với chỉ một lần giao chiến trong trận Solent chống lại François I của Pháp vào năm 1545 (trong đó tàu Mary Rose bị đánh chìm).
Ban đầu những chiếc tàu trên được thử nghiệm mang những khẩu đại bác có nòng lớn trên boong. Do có ưu thế trọng tải và chiều cao của mạn khô những chiếc tàu tiên phong đã cho thấy sự thích hợp với hỏa khí hơn hẳn so với những chiếc tàu buồm. Một lợi thế khác của những chiếc tàu chiến tuyến là có thể chịu đựng được gió bão, rẽ nước tốt hơn là nhờ kích thước lớn và được phát triển từ những tàu chuyên chở vượt Đại Tây Dương. Cùng với việc không cần dùng mái chèo đồng nghĩa với một thủy đoàn lớn là không cần thiết giúp cho tàu có thực hiện những chuyến hành trình dài. Nhưng điều đó cũng khiến cho tàu chiến tuyến phụ thuộc hoàn toàn vào gió cho tính cơ động của tàu. Về điểm này tàu galê cho thấy sự vượt trội so với những tàu chiến lớn khác, đặc biệt khi chỉ có những cơn gió nhẹ tàu galê có nhiều thuận lợi hơn hẳn, nhưng khi những chiếc tàu chiến tuyến ngày một lớn hơn thì tàu galê càng tỏ ra kém hiệu quả.
Một hạn chế khác của tàu chiến tuyến là thượng tầng mũi cao, làm giảm khả năng di chuyển của tàu; do đó mũi tàu thường được hạ thấp trong khi di chuyển trước gió. Nhưng cùng với sự xuất hiện của đại bác và hỏa khí được sử dụng làm vũ khí chủ chốt trong các trận thủy chiến vào thế kỷ 16, thượng tầng mũi thấp thời trung cổ bị loại bỏ và những tàu ga-lê-ôn chỉ có thượng tầng mũi thấp một tầng. Cho đến khi chiến tàu Sovereign of the Seas sau đó được hạ thủy vào năm 1637, thượng tầng mũi cao được thêm vào thiết kế của tàu chiến tuyến.
Trong khoảng thời gian từ thế kỷ 16 đến 18, những chiếc thuyền lớn và thuyền buồm dần được thay thế bởi tàu ga-lê-ôn một loại tàu dài và cơ động hơn. Thừa hưởng những ưu điểm của những tàu chiếc tàu đi trước, tàu ga-lê-ôn đã trở thành trang bị chủ yếu của hải quân Anh và Tây Ban Nha trong trận Gravelines. Đến thập niên 1710, tất cả lực lượng hải quân ở Âu châu đều được trang bị những tàu chiến cùng loại như trên.Song song với việc gia tăng những chuyến hành trình tìm kiếm thuộc địa và khám thám hiểm, yêu cầu bức thiết đặt ra cần có những con tàu thương mại có khả năng thực hiện các cuộc hành trì dài và chịu đựng được gió bão.Như một lẽ tất nhiên, những chiếc tàu ga-lê và galleasses(một loại tàu ga-lê có thành cao hơn và có khả năng mang đại bác, nhưng thấp hơn ga-lê-ôn) càng ít được sử dụng và hoàn toàn vắng bóng trong chiến tranh vào thập kỷ 1750.
Sự thích nghi với chiến đấu trên chiến tuyến
[[Tập tin:Mahmudiye (1829).jpg|nhỏ|
Mahmudiye (1829), được đặt bởi Sultan Mahmud II của đế chế Ottoman và được đóng bởi Imperial Naval Arsenal tại vịnh Sừng Vàng (Golden Horn) ở Istanbul. Với kích thước 62x17x7m và được trang bị 128 khẩu pháo trên 3 boong, trong nhiều năm liền là chiếc tàu chiến lớn nhất thế giới. Nó đã tham gia vào trận Siege of Sevastopol trong chiến tranh Crimea. Nó bị cho ra khỏi biên chế vào năm 1875.]]
Cách mạng trong thiết kế
Động cơ hơi nước
Suy tàn
Chiến đấu
Phục chế và bản sao
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|[[HMS Victory|HMS _Victory_ năm 1884, mẫu còn lại duy nhất của tàu chiến tuyến]] **Tàu chiến tuyến** (tiếng Anh:_ship of the line_) là loại tàu chiến hoạt động trên biển được chế tạo từ thế
Mô hình tàu chiến Đại Hiệu của thủy quân [[Nhà Tây Sơn|Tây Sơn trong trận Rạch Gầm-Xoài Mút]] **Tàu chiến** là danh xưng thường dùng trong tiếng Việt theo nghĩa rộng để chỉ các loại
Chín tàu chiến của Hải quân Pháp từng được đặt cái tên **_Duguay-Trouin_** nhằm vinh danh René Duguay-Trouin: * _Duguay-Trouin_ (1781-1793) là một tàu chiến tuyến 74 khẩu pháo * _Duguay-Trouin_ (1795-1805) là một tàu
Mười hai tàu chiến của Hải quân Pháp từng được đặt tên **_Jean Bart_** nhằm tôn vinh Jean Bart: * _Jean Bart_ (1791) là một tàu chiến tuyến 74 khẩu pháo (1791–1809) * _Jean Bart_
Bảy tàu chiến của Hải quân Pháp từng được đặt cái tên **_Suffren_** nhằm vinh danh vị Đô đốc vào Thế kỷ 18 Pierre André de Suffren: * _Suffren_ (1791-1794) là một tàu chiến tuyến
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Invincible**_ bao gồm ba chiếc được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc và được đưa ra hoạt động vào năm 1908 như những tàu chiến-tuần dương đầu tiên
thumb|[[Tàu sân bay trở thành các tàu chiến chủ lực chính của hầu hết các lực lượng hải quân nước xanh dương thời hiện đại. Trong ảnh là tàu sân bay chạy bằng năng lượng
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Indefatigable**_ là lớp tàu chiến-tuần dương thứ hai của Anh Quốc, đã phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh và Hải quân Hoàng gia Australia trong Chiến tranh Thế giới
nhỏ|phải|[[HMS Hood (51)|HMS _Hood_, tàu chiến-tuần dương lớn nhất từng được chế tạo, lớn hơn mọi thiết giáp hạm Anh Quốc cho đến khi chiếc HMS _Vanguard_ đưa ra hoạt động vào năm 1946. Nó
**Chiến hạm _Napoléon**_ là một tàu chiến tuyến 90 pháo của Hải quân Pháp, và là tàu chạy động cơ hơi nước được chế tạo đầu tiên trên thế giới dùng cho mục đích quân
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Admiral**_ là một lớp bao gồm bốn tàu chiến-tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được thiết kế vào lúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất sắp kết thúc.
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Courageous**_ bao gồm ba chiếc tàu chiến-tuần dương được biết đến như là những "tàu tuần dương hạng nhẹ lớn" được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Trên
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Kirov**_, được Liên Xô chỉ định với cái tên "Project 1144 Orlan" (đại bàng biển), là một lớp tàu tuần dương mang tên lửa hành trình chạy bằng năng lượng hạt
**Đội tàu chiến Bắc Kỳ** (tiếng Pháp: _flotille de Tonkin_) là một đơn vị của Pháp được thành lập vào mùa hè năm 1883 với nhiệm vụ bình định các dòng sông và vùng nước
**Chiến tranh Hoa Kỳ - Anh Quốc**, hay thường được biết đến với cái tên **Chiến tranh năm 1812**, là một cuộc chiến giữa các lực lượng quân đội Hoa Kỳ và quân đội Đế
**Trận chiến Sinop**, hay **Trận** **chiến tại Sinope**, là một trận hải chiến diễn ra vào ngày 30 tháng 11 năm 1853 giữa Đế quốc Nga và Đế chế Ottoman, trong giai đoạn mở đầu
nhỏ|388x388px|Tàu tuần dương _Frunze_ thuộc [[Tàu tuần dương hạng nặng lớp Kirov|lớp _Kirov_ của Hải quân Nga]] **Tàu tuần dương**, còn được gọi là **tuần dương hạm**, là một loại tàu chiến lớn, có vai
**Tàu frigate** () là một loại tàu chiến. Từ ngữ này được dùng cho nhiều tàu chiến với nhiều kích cỡ và vai trò khác nhau trong vài thế kỷ gần đây. Theo vai trò
**Hải chiến mũi St. Vincent** () là trận hải chiến diễn ra vào chiều muộn và đêm ngày 16 tháng 1 năm 1870 ngoài khơi bờ biển Bồ Đào Nha trong cuộc chiến tranh giành
**Tàu hộ vệ** (tiếng Anh: _Guard ship_) là một loại tàu chiến được thiết kế để thực hiện nhiệm vụ tuần tra, bảo vệ các tàu lớn như tàu vận tải và tàu đổ bộ
**_Con tàu Chiến Thắng_** (tên gốc , còn được biết đến với tên tiếng Anh: **_Space Sweepers_**) là phim điện ảnh không gian của Hàn Quốc năm 2021 do Jo Sung-hee đạo diễn. Bộ phim
**Chiến tranh giành độc lập Brasil** là cuộc chiến được tiến hành giữa Brasil và Bồ Đào Nha. Chiến tranh kéo dài từ tháng 2 năm 1822, khi những cuộc giao tranh đầu tiên giữa
**Tàu khu trục lớp Murasame** (tiếng Nhật: むらさめ型護衛艦) là một lớp tàu khu trục (**DD**) thuộc biên chế của Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF). Đây là lớp tàu khu trục thế
**Tàu khu trục lớp Hatsuyuki** (tiếng Nhật: はつゆき型護衛艦) là một lớp tàu khu trục (**DD**) thuộc biên chế của Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF). Hatsuyuki là một lớp tàu khu trục
**Tàu khu trục lớp Takatsuki** (tiếng Nhật: たかつき型護衛艦) là một lớp tàu khu trục phòng không (**DDA**) thuộc biên chế của Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF). Takatsuki là lớp tàu khu
**Tàu ngầm lớp Sōryū** (tiếng Nhật: そうりゅう) hay **16SS** là lớp tàu ngầm điện-diesel do Mitsubishi Heavy Industries và Kawasaki Heavy Industries hợp tác chế tạo cho Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản
**Tàu khu trục lớp Kongō** (tiếng Nhật: こんごう型護衛艦) là lớp tàu khu trục mang tên lửa có điều khiển (DDG) đầu tiên của Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF) được chế tạo
**Tàu khu trục lớp Atago** (tiếng Nhật: あたご型護衛艦) là một lớp tàu khu trục tên lửa (**DDG**) được trang bị hệ thống chiến đấu Aegis (AWS) thuộc biên chế của Lực lượng Phòng vệ trên
**Tàu khu trục lớp Hyūga** (tiếng Nhật: ひゅうが型護衛艦) llà lớp tàu khu trục mang máy bay trực thăng (DDH) thuộc biên chế của Lực lược Phòng vệ trên biển Nhật Bản. Tên của lớp tàu
, hay còn được gọi là **lớp 19DD**, là một lớp tàu khu trục (**DD**) được phát triển bởi Mitsubishi Heavy Industries (MHI) cho Lực lượng Phòng vệ Biển Nhật Bản (JMSDF). Dự án lớp
**Chiến hạm Vasa** là một chiến hạm có thật trong lịch sử và trường hợp của chiến hạm này được ghi nhận như một case study điển hình của mọi thời đại về việc quản
Tên tàu Nhật tuân theo các quy ước khác nhau từ những quy ước điển hình ở phương Tây. Tên tàu buôn thường chứa từ _maru_ ở cuối (nghĩa là _vòng tròn_), trong khi tàu
**_Arleigh Burke_** là một lớp tàu khu trục tên lửa dẫn đường thuộc biên chế Hải quân Hoa Kỳ. Nó được xây dựng dựa trên Hệ thống Tác chiến Aegis và radar mảng pha quét
là một cặp tàu tuần dương bọc thép lớn được đóng cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 20. Các tàu bắt đầu được đóng giữa cuộc
**Tàu tuần tra tên lửa lớp Hayabusa** (tiếng Nhật: **はやぶさ型ミサイル艇**) là một lớp tàu tuần tra mang tên lửa thuộc Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF), do Nhà máy đóng tàu Shimonoseki
**_I-123_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 50_** và mang tên **_I-23_** từ năm 1927 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**Tàu giám sát đại dương lớp Hibiki** (Tiếng Nhật: **ひびき型音響測定艦**) là một lớp tàu giám sát thuộc Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF). Các tàu lớp Hibiki sở hữu hai đáy và
sau này đổi tên là là tàu chiến bọc thép đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Đóng tại Bordeaux, Pháp vào năm 1864 cho Hải quân Liên minh Hoa Kỳ dưới tên
**Tàu khu trục lớp Shirane** (tiếng Nhật: **_しらね型護衛艦_**) là lớp tàu khu trục mang máy bay trực thăng **(DDH)** phục vụ trong biên chế Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF). Shirane là
là một trong bốn tàu thuộc lớp tàu phóng lôi Chidori của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó bị lật trong một cơn bão vào ngày 12 tháng 3 năm 1934, ngay sau khi
**_I-2_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
**_U-202_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-559_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-66_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type IXC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**Tàu đổ bộ lớp Osumi** (Tiếng Nhật: **おおすみ型輸送艦)** là một lớp tàu vận tải đổ bộ thuộc Lực lượng Phòng vệ biển Nhật Bản. Đây là lớp tàu thế hệ thứ 2 mang tên _Osumi
**_I-27_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_U-98_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực
**Tàu khu trục lớp Asahi** (**Nhật**: 朝日級驅逐艦), hay còn được gọi là **lớp DD25**, là một lớp tàu khu trục đa năng thuộc biên chế của Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF).
**Tàu khu trục lớp Akizuki** (tiếng Nhật: あきづき型護衛艦) là một lớp tàu khu trục chống ngầm được phát triển bởi Mitsubishi Heavy Industries (MHI) cho Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF) vào
**HMS _Victory**_ là một tàu chiến tuyến mang 104 khẩu pháo của Hải quân Hoàng gia Anh. Nó được đặt lườn năm 1759 và được hạ thủy trong năm 1765. Nó nổi tiếng nhờ vai