Quỷ hầu (Devil Monkey) là một sinh vật kỳ bí dạng khỉ được báo cáo đã xuất hiện tại nước Mỹ lần đầu tiên vào ngày 27 tháng 6 năm 1997 tại thị trấn Dunkinsville thuộc bang Ohio và sau đó được ghi nhận là xuất hiện ở nhiều địa điểm khác nhau trên toàn cõi nước Mỹ. Đây là sinh vật kỳ bí từng gây náo loạn rừng núi. Sự xuất hiện của loài sinh vật huyền bí này là nỗi ám ảnh của nhiều cư dân vùng Bắc Mỹ.
Mô tả
nhỏ|phải|Những mô tả cho thấy chúng có ngoại hình khá giống một con khỉ đầu chó
nhỏ|phải|Chúng có khả năng nhảy xa như [[chuột túi.]]
Hình vẽ quỷ hầu từ miêu tả của các nhân chứng. Quỷ hầu có vẻ ngoài vô cùng đáng sợ. Đa số các báo cáo miêu tả có một con quái vật tấn công vật nuôi ở các trang trại gần rừng. Sinh vật tàn ác ấy mang khuôn mặt khỉ đầu chó, cơ thể khổng lồ, chân có móng vuốt dài, tai nhỏ, mắt dữ, di chuyển nhanh và nhảy cao. Theo mô tả, sinh vật này có lông màu trắng bạc và xám, cùng lớp lông bờm dày, khuôn mặt giống khỉ đầu chó nhưng kích thước cơ thể lớn hơn nhiều, dài gần 2 m. Nó giống như một con khỉ đầu chó khổng lồ.
Một nhân chứng nữ mô tả rằng đây là con vật xấu nhất từng thấy, nó có đuôi, mặt khỉ lai chó nhưng đứng thẳng như người, nó không đi mà nhảy bước với tốc độ rất nhanh. Một nhân chứng khác kể lại rằng quỷ hầu có lớp lông màu trắng bạc, khuôn mặt giống khỉ, nhưng nó đứng trên hai chân như con người, miệng phát ra những âm thanh ghê rợn. Mọi người miêu tả lại nó có mắt sáng, bộ lông trắng, đứng thẳng như người nhưng có khuôn mặt giống chó, cùng đuôi rất dài. Thay vì chạy chúng lại nhảy từng bước dài bằng 2 chân sau, 2 chân trước co lên tạo thành dáng đứng thẳng. Nó có thể nhanh chóng nhảy lên cây trước sự ngỡ ngàng của nhiều người, độ cao của cú nhảy này lên tới 4m.
Phạm vi xuất hiện
Nó được coi là một trong những sinh vật huyền bí nổi tiếng của châu Mỹ, nhưng khác với Bigfoot hay Yeti, sự xuất hiện cùng nỗi ám ảnh của sinh vật này trải dài trên một vùng đất rộng lớn. Các báo cáo đầu tiên về quỷ hầu xuất hiện ở Bắc Mỹ có vào năm 1934, ghi nhận về một loài động vật nguy hiểm liên tục được nhìn thấy ở Pittsburgh, bang Tennessee. Theo các nhân chứng kể lại, khi thám hiểm trong rừng, họ đã thấy một con vật di chuyển ngang qua mặt với tốc độ sấm sét.
Năm 1959, vợ chồng tài xế Boyd ở Saltville trong lúc đi qua ngọn núi để vào thị trấn đã bị sinh vật kì lạ trên tấn công. Từ trên đoạn đê cao, một con vật khổng lồ giống như khỉ bất ngờ nhảy xuống phía đầu xe của Boyd, như thể sẽ đâm sầm qua kính chắn gió vào phía ghế trước, nhưng với sự nhanh nhẹn khéo léo, nó lại hạ xuống ngay bên cạnh cửa phía phụ xe và cố gắng tóm lấy chiếc xe. Trên thân xe còn để lại 3 vết xước dài từ cửa trước tới cửa sau, chứng minh cho sức khỏe phi thường của ác thú.
Vài ngày sau khi sự kiện này, hai y tá ở khu vực Saltville khi lái xe về nhà vào buổi sáng sớm cũng bắt gặp con khỉ khổng lồ băng qua đường.. Trong chuyến điều tra thực địa, hai ông đã phát hiện được những vết chân 3 ngón khác biệt.
Năm 1973, nhà nghiên cứu động vật bí ẩn Loren Coleman đã điều tra các vụ sát hại gia súc tại Albany, Kentucky của ba con vật giống khỉ khổng lồ có đuôi dài màu đen rậm lông. Giống như cuộc điều tra năm 1969 của Rene Dahinden và John Green, ông cũng phát hiện được những vết chân 3 ngón khác biệt. Rất nhiều người nông dân ở Albany, Kentucky đã bị mất gia súc, ruộng vườn bị phá nát bởi một con vật giống khỉ đầu chó. Coleman sau đó hợp tác với Animal Planet để làm một phóng sự về sinh vật bí ẩn trên. Vào năm 1979, một loạt các nhân chứng đã nhìn thấy một con vật giống khỉ khổng lồ đi 2 chân trong khu vực vùng sâu thuộc bang Georgia, được người ta goi là Belt Road Booger.
Báo chí ngay lập tức đẩy câu chuyện lên trang nhất và đặt cho con quái vật một cái tên Devil Monkey (hay quỷ hầu). Từ đây, quỷ hầu được ghi nhận có mặt ở khắp mọi nơi ở Bắc Mỹ, thậm chí ở những vùng rất lạnh như Alaska. Nhiều người bỏ thời gian trùy lùng tung tích của quỷ hầu và phát hiện ra một điều thú vị, mọi nơi sinh vật này xuất hiện đều quay quanh dãy núi Appalachian, một vùng hoang sơ, hiểm trở và còn nhiều điều bí ẩn với con người.
Ghi nhận gần đây nhất là vào ngày 12 tháng 1 năm 2006 nhưng khác với những lần trước, quỷ hầu hiện diện ngay tại thành phố công nghiệp Chicago. Nhiều nhân chứng phát hiện con vật này đã xé xác chú chó nhà tội nghiệp. Sau khi hành sự, quỷ hầu nhảy nhanh vào rừng trước sự sợ hãi của mọi người.
Giả thiết
Nhiều nhà khoa học tin rằng, con vật mà nhiều người nhìn thấy chính là sói đồng cỏ Bắc Mỹ. Loài này rất phổ biến, số lượng đông, dáng lớn và rất nhanh nhẹn, có mõm hẹp, tai nhọn như khỉ đầu chó. Sói đồng cỏ Bắc Mỹ còn biết đứng trên hai chân để giả làm con người, rồi nhảy từng bước như kangaroo hay chuột túi Wallaby. Sói đồng cỏ Bắc Mỹ là nghi phạm hàng đầu cho vụ quỷ hầu. Loài thú ăn thịt này rất tháo vát, lắm mưu mô, là kẻ đi săn gan dạ, thông minh, có khả năng thích ứng rất tốt. Do đó dù đối diện với sự phát triển của loài người, nhưng sói đồng cỏ Bắc Mỹ vẫn tiếp tục phát triển mạnh mẽ cho đến ngày nay.
nhỏ|phải|Sói đồng cỏ là một giả thiết
Điều này có thể giải thích vì sao quỷ hầu lại được chứng kiến ở rất nhiều nơi đến như vậy. Sói đồng cỏ Bắc Mỹ có lối sống cộng đồng phức tạp, khi già, hoặc mắc bệnh truyền nhiễm sẽ tự động tách đàn và tấn công con người. Trong lịch sử, không ít lần cư dân ở đây bắt được những con sói Bắc Mỹ to lớn tấn công hàng loạt vào đàn gia súc như cừu và dê. Sói Bắc Mỹ còn được biết đến là một trong những loài có tiếng hú ấn tượng nhất của lục địa Bắc Mỹ. Loài này không sủa như chó nhà mà chỉ cất tiếng tru ăng ẳng vang đi rất xa, nghe ghê tai và đáng sợ. Tiếng tru này có tác dụng thu hút bạn tình và làm khiếp vía đối thủ.
Một điều quan trọng hơn, tại vùng Chicago, cho sói Bắc Mỹ có số lượng tới hàng trăm, thậm chí hơn một nghìn con chó sói sống tại các vùng đất trống quanh đây. Các con chó sói có mặt ở khắp mọi nơi, kể cả trong các công viên hay khu công nghiệp hoặc xen kẽ giữa vùng dân cư, khu thương mại. Chúng có thể đứng bằng hai chân và bật nhảy rất xa chẳng thua gì một con Kangaroo. Theo nhà nghiên cứu Mark Hall, quỷ hầu chỉ là một biến thể những câu chuyện về ma cà rồng. Báo chí đã góp phần thổi phồng những truyền thuyết đô thị này làm nhiều người dân bị ám ảnh. Trong đêm tối, ở nơi hoang vắng, họ đã nhìn nhầm những con sói thành loài quỷ hầu ghê gớm.
Thế nhưng sự giải thích trên cũng không ngăn được nhiều người ham mê thám hiểm. Họ tin rằng, đây là một loài sinh vật mới hoàn toàn và việc phát hiện ra nó chỉ là vấn đề thời gian. Nhiều trang web được lập ra để mọi người cùng chia sẻ, tìm hiểu thông tin về quỷ hầu. Thậm chí hàng năm rất nhiều cá nhân, tổ chức tham gia lùng sục vùng rừng núi Appalachian với hi vọng tìm thấy dấu tích sinh vật huyền bí này.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Quỷ hầu** (_Devil Monkey_) là một sinh vật kỳ bí dạng khỉ được báo cáo đã xuất hiện tại nước Mỹ lần đầu tiên vào ngày 27 tháng 6 năm 1997 tại thị trấn Dunkinsville
thumb|Nhóm đá quý và bán quý—cả đá chưa cắt và đá mài giác—bao gồm kim cương (theo chiều kim đồng hồ từ trên cùng bên trái), [[Saphir|sapphire tổng hợp chưa cắt, hồng ngọc, ngọc lục
**Thanh Cao Tông Kế Hoàng hậu** (chữ Hán: 清高宗繼皇后, 11 tháng 3, năm 1718 - 19 tháng 8, năm 1766), Na Lạp thị, là Hoàng hậu thứ 2 của Thanh Cao Tông Càn Long Đế.
**Hiếu Khâm Hiển Hoàng hậu**; (chữ Hán: 孝欽顯皇后; ; ; trước đây La Mã hóa là **Từ Hi Thái hậu T'zu-hsi**; 29 tháng 11 năm 1835 – 15 tháng 11 năm 1908), thường được gọi
**Hiếu Trinh Hiển Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝貞顯皇后; ; 12 tháng 8, năm 1837 – 8 tháng 4, năm 1881), được biết đến như **Từ An Hoàng thái hậu** (慈安皇太后) hoặc **Đông Thái hậu** (東太后),
**Hiếu Thánh Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝聖憲皇后, tiếng Mãn: ; tiếng Mãn Châu: hiyoošungga enduringge temgetulehe hūwangheo; 1 tháng 1 năm 1693 - 2 tháng 3 năm 1777), thường gọi là **Sùng Khánh Hoàng
**Hiếu Ý Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝懿仁皇后; ; ? - 24 tháng 8 năm 1689), là Hoàng hậu thứ ba của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế, đồng thời là mẹ nuôi của Thanh
thumb|[[Carlo Ferdinando của Hai Sicilie|Carlo Ferdinando của Hai Siclie, Thân vương xứ Capua (trên cùng), cùng với người vợ quý tiện kết hôn của mình Anh-Ailen Penelope Smyth (trái), và con gái của họ, Vittoria
**Hiếu Tĩnh Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝静成皇后, ; 19 tháng 6, năm 1812 - 21 tháng 8, năm 1855), còn gọi **Hiếu Tĩnh Khang Từ Hoàng hậu**, **Khang Từ Hoàng thái hậu** hay **Khang
**Hiếu Trang Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊睿皇后; 2 tháng 8, 1426 - 15 tháng 7, 1468), còn gọi là **Từ Ý Hoàng thái hậu** (慈懿皇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Anh Tông
**Hiếu Toàn Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝全成皇后, ; 24 tháng 3, năm 1808 - 13 tháng 2, năm 1840), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng đế và là
**Lã hậu** (chữ Hán: 呂后, 241 – 180 TCN), có âm khác **Lữ hậu**, thường gọi **Lã Thái hậu** (呂太后) hay **Hán Cao hậu** (漢高后), là vị Hoàng hậu duy nhất của Hán Cao Tổ
thumb|upright=1.35|right|alt=Bản đồ toàn cầu về sự tăng nhiệt độ nước biển từ 0,5 đến 300 độ Celsius; nhiệt độ đất liền tăng từ 10000 đến 20000 độ Celsius; và nhiệt độ vùng Bắc cực tăng
**Hòa Hi Đặng Hoàng hậu** (chữ Hán: 和熹鄧皇后; 81 - 121), hay còn gọi **Hòa Hi Đặng thái hậu** (和熹鄧太后), **Đông Hán Đặng thái hậu** (東漢鄧太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hòa Đế
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 皇太后; Kana: こうたいごうKōtaigō; Hangul: 황태후Hwang Tae Hu; tiếng Anh: _Dowager Empress_, _Empress Dowager_ hay _Empress Mother_), thường được gọi tắt là **Thái hậu** (太后), là một tước vị được quy
**Minh Đức Mã hoàng hậu** (chữ Hán: 明德馬皇后; ? - 9 tháng 7, 79), hay thường gọi **Minh Đức hoàng thái hậu** (明德皇太后), **Đông Hán Minh Đức Mã hoàng hậu** (東漢明德馬皇后), **Đông Hán Mã thái
**Chương Đức Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章德竇皇后; ? - 14 tháng 8, 97), cũng gọi **Chương Đức Đậu Thái hậu** (章德竇太后), **Đông Hán Đậu Thái hậu** (東漢竇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán
nhỏ|Di cốt còn sót lại của Tả phu nhân, một trong những người vợ của vua [[Triệu Văn Vương|Triệu Văn Đế]] nhỏ|Tượng [[Đại Thắng Minh Hoàng Hậu Dương Vân Nga ở Hoa Lư, người duy
**Văn Minh Phùng Hoàng hậu** (chữ Hán: 文明馮皇后, 441 - 17 tháng 10, 490), thường gọi là **Văn Minh Thái hậu** (文明太后) hoặc **Bắc Ngụy Phùng Thái hậu** (北魏冯太后), là Hoàng hậu của Bắc Ngụy
**Cao Quý Hưng** () (858. Khi còn nhỏ, ông là nô bộc cho một phú nhân tại Biện châu. Theo _Cựu Ngũ Đại sử_ và _Tư trị thông giám_, ông là nô bộc của Lý
**Cục Biến đổi khí hậu** (tiếng Anh: _Department of Climate Change_, viết tắt là **DCC**) là cơ quan trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường, có chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng quản
**Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝和睿皇后, ; 20 tháng 11, năm 1776 - 23 tháng 1, năm 1850), còn được biết đến dưới tên gọi **Cung Từ Hoàng thái hậu** (恭慈皇太后), là Hoàng
**Hiếu Tiết Liệt hoàng hậu** (chữ Hán: 孝節烈皇后; 10 tháng 5 năm 1611 - 24 tháng 4 năm 1644), là Hoàng hậu của Minh Tư Tông Sùng Trinh Đế, vị hoàng đế cuối cùng của
**Ý An Quách Hoàng hậu** (chữ Hán: 懿安皇后, 780 - 25 tháng 6, năm 848), còn được gọi là **Quách Quý phi** (郭貴妃) hay **Quách Thái hậu** (郭太后), là nguyên phối của Đường Hiến Tông
**Từ Thánh Quang Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 慈聖光獻皇后, 1016 - 16 tháng 11, 1079), còn gọi **Từ Thánh Tào Thái hậu** (慈聖曹太后) hay **Từ Thánh hậu** (慈聖后) là Hoàng hậu thứ hai của Tống
**Thỏa thuận Paris về khí hậu** là một điều ước quốc tế về biến đổi khí hậu được ký kết vào năm 2016, quy định về việc giảm thiểu biến đổi khí hậu, thích ứng
**Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam** (tiếng Anh: **Miss Cosmo Vietnam**) là cuộc thi sắc đẹp cấp quốc gia của Việt Nam được tổ chức hằng năm bắt đầu từ 2022, trước đó cuộc thi
thumb|Nhiếp chính vương [[Tải Phong - thân sinh của Tuyên Thống Đế.]] Triều đại nhà Thanh của Trung Quốc đã phát triển một hệ thống xếp hạng quý tộc rất phức tạp. Tất cả các
**Hiếu Trang Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊文皇后; ; 28 tháng 3, 1613 - 27 tháng 1, 1688), thường được gọi là **Hiếu Trang Thái hậu** (孝莊太后), **Chiêu Thánh Thái hậu** (昭聖太后) hoặc **Hiếu Trang
**Hậu Giang** là một tỉnh cũ ở Đồng bằng sông Cửu Long. Cổng chào của tỉnh Hậu Giang, đặt trên địa bàn của thị trấn Cái Tắc ## Trước năm 1975 * Ngày 20 tháng
**Thái hoàng thái hậu** (chữ Hán: 太皇太后; Kana: たいこうたいごうTaikōtaigō; Hangul: 태황태후Tae Hwang Tae Hu; tiếng Anh: _Grand Empress Dowager_ hay _Grand Empress Mother_), thông thường được giản gọi là **Thái Hoàng** (太皇) hay **Thái Mẫu**
**Mạnh Sưởng** () (919–12 tháng 7, 965), sơ danh **Mạnh Nhân Tán** (孟仁贊), tự **Bảo Nguyên** (保元), được Tống Thái Tổ truy thụy hiệu là **Sở Cung Hiếu Vương** (楚恭孝王), là hoàng đế thứ hai
**_Bảo đảm hậu cần_** là tổng thể các hoạt động, biện pháp bảo đảm vật chất, bảo đảm sinh hoạt, bảo đảm quân y, thú y; công tác vận tải và một số mặt bảo
**Hiếu Cung Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝恭章皇后; 22 tháng 2, 1398 - 26 tháng 9, 1462), còn gọi **Thượng Thánh Hoàng thái hậu** (上聖皇太后), **Thánh Liệt Từ Thọ Hoàng thái hậu** (聖烈慈壽皇太后) hoặc **Tôn
**Cung Nhượng Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 恭讓章皇后, 20 tháng 5, 1402 - 5 tháng 12, 1443) là Hoàng hậu thứ nhất của Minh Tuyên Tông Chu Chiêm Cơ - vị Hoàng đế thứ 5
**Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝賢纯皇后, ; 28 tháng 3, năm 1712 - 8 tháng 4, năm 1748), là nguyên phối Hoàng hậu của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. Xuất thân vọng
**Hoa hậu Việt Nam 2008** là cuộc thi Hoa hậu Việt Nam lần thứ 11 và là lần kỷ niệm 20 năm cuộc thi do Báo Tiền Phong tổ chức. Cuộc thi diễn ra từ
**Văn Đức Thuận Thánh hoàng hậu** (chữ Hán: 文德順聖皇后, 15 tháng 3, 601 – 28 tháng 7, 636), thông thường được gọi là **Trưởng Tôn hoàng hậu** (長孫皇后), là Hoàng hậu duy nhất của Đường
**Hậu Lương Thái Tổ** (), tên húy **Chu Toàn Trung** (朱全忠) (852–912), nguyên danh **Chu Ôn** (朱溫), sau khi tức vị cải thành **Chu Hoảng** (朱晃), là một nhân vật quân sự và chính trị
**Huy Gia Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 徽嘉皇太后; 1441 - 8 tháng 4, 1505), hay **Trường Lạc Hoàng hậu** (長樂皇后), là phi tần của hoàng đế Lê Thánh Tông, sinh mẫu của hoàng đế Lê
**Hiếu Định Cảnh Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝定景皇后; ; 28 tháng 1 năm 1868 – 22 tháng 2 năm 1913), còn gọi là **Thanh Đức Tông Hoàng hậu** (清德宗皇后), **Long Dụ Hoàng hậu** (隆裕皇后) hay
**Cung Thánh Nhân Liệt hoàng hậu** (chữ Hán: 恭聖仁烈皇后; 1162 - 1232), thông gọi **Thọ Minh hoàng thái hậu** (壽明皇太后) hay **Ninh Tông Dương hoàng hậu** (寧宗楊皇后), là Hoàng hậu thứ hai của Tống Ninh
**Hiếu Kính Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝敬憲皇后; ; 28 tháng 6, năm 1681 - 29 tháng 10, năm 1731), là Hoàng hậu duy nhất tại vị của Thanh Thế Tông Ung Chính Hoàng đế.
**Bác Nhĩ Tế Cát Đặc Phế hậu** (chữ Hán: 博爾濟吉特废后), còn gọi **Thanh Thế Tổ Phế hậu** (清世祖废后) hoặc **Phế hậu Tĩnh phi** (废后静妃), nguyên phối và là Hoàng hậu đầu tiên của Thanh Thế
**Hiếu Cảnh Vương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝景王皇后; 178 - 126 TCN), thường gọi **Hiếu Cảnh Thái hậu** (孝景太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Cảnh Đế Lưu Khải. Bà là sinh mẫu của
**Biến đổi khí hậu** là sự thay đổi của hệ thống khí hậu gồm khí quyển, thủy quyển, sinh quyển, thạch quyển, băng quyển hiện tại và trong tương lai bởi các nguyên nhân tự
**Hồ thái hậu** (chữ Hán: 胡太后, ? - 17 tháng 5, năm 528), còn thường gọi là **Linh thái hậu** (靈太后), một phi tần của Bắc Ngụy Tuyên Vũ Đế, và Hoàng thái hậu nhiếp
Các **quỹ phòng hộ**, **quỹ tự bảo hiểm rủi ro** hay **quỹ đối xung** (hedge fund) là các quỹ đầu tư tư nhân được quản lý chủ động. Họ đầu tư vào một phạm vi
**Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝誠仁皇后, ; 26 tháng 11 năm 1653 – 16 tháng 6 năm 1674), còn được biết đến với thụy hiệu ban đầu là **Nhân Hiếu Hoàng hậu** (仁孝皇后),