✨Quân khu Kharkov

Quân khu Kharkov

Quân khu Kharkov () là một quân khu của Đế quốc Nga, nước Nga Xô viết và Liên Xô. Trong suốt lịch sử, trụ sở quân khu nằm tại thành phố Kharkov tại phần đông bắc của Ukraina.

Quân khu được thành lập lần đầu tiên vào năm 1864 thời Đế quốc Nga. Quân khu bị giải thể và lãnh thổ của nó được chuyển giao cho Quân khu Kiev và Quân khu Moskva vào năm 1888. Quân khu được Hồng quân tái lập dưới thời Nội chiến Nga vào tháng 1 năm 1919, nhưng tan rã vào tháng 9 sau khi địa bàn bị Bạch vệ chiếm đóng. Quân khu được tái lập vào tháng 1 năm 1920, nhưng bị giải thể vào năm 1922 và binh sĩ của nó trực thuộc Quân khu Tây Nam.

Năm 1935, quân khu được tái lập khi Quân khu Ukraina được chia thành Quân khu Kiev và Kharkov. Sau khi Chiến dịch Barbarossa bắt đầu vào năm 1941, Liên Xô phải rút lui khỏi địa bàn, và quân khu bị giải thể vào cuối tháng 11. Sau khi quân đội Liên Xô chiếm lại khu vực, Quân khu Kharkov được tái lập vào cuối tháng 9 năm 1943. Sau khi chiến tranh kết thúc, nó bị hạ cấp và bị giải thể vào năm 1946, địa bàn của nó được chuyển cho Quân khu Kiev.

Đế quốc Nga

Quân khu Kharkov được thành lập lần đầu tiên vào ngày 22 tháng 8 [10 tháng 8 lịch cũ] năm 1864 trong cải cách hệ thống hành chính quân sự của Dmitry Milyutin. Trụ sở chính của quân khu nằm tại Kharkov, và kiểm soát quân đội trên lãnh thổ của các tỉnh Voronezh, Kursk, Oryol, Poltava, Kharkov và Chernigov. Quân khu bị bãi bỏ vào ngày 31 tháng 10 năm 1888, với phần lớn lãnh thổ được chuyển giao cho Quân khu Kiev, ngoại trừ các tỉnh Voronezh và Oryol trở thành một phần của Quân khu Moskva.

;Tư lệnh Các sĩ quan Quân đội Đế quốc Nga sau đây chỉ huy quân khu trong thời kỳ Đế quốc Nga từ năm 1864 đến 1888:

  • Tướng quân kỵ binh Vasily Launits (tháng 8–10 1864)
  • Tướng quân kỵ binh Sigizmund Merkhilevich (tháng 10 năm 1864–tháng 2 năm 1865)
  • Tướng quân kỵ binh Pontus Brevern-de la Gardie (tháng 2 năm 1865–tháng 8 năm 1869)
  • Tướng quân bộ binh Alexander Kartsov (tháng 8 năm 1869–tháng 11 năm 1875)
  • Trung tướng Felix Sumarokov-Elston (tháng 12 năm 1875–tháng 10 năm 1877)
  • Tướng quân bộ binh Alexander Minckwitz (tháng 10 năm 1877–tháng 4 năm 1879)
  • Tướng quân kỵ binh Mikhail Loris-Melikov (tháng 4 năm 1879–tháng 1 năm 1880)
  • Tướng quân kỵ binh Alexander Dondukov-Korsakov (tháng 2 năm 1880–tháng 1 năm 1881)
  • Tướng quân bộ binh Dmitry Sviatopolk-Mirsky (tháng 1 năm 1881–tháng 5 năm 1882)
  • Tướng quân bộ binh Fyodor Radetzky (tháng 5 năm 1882–tháng 10 năm 1888)

Nội chiến Nga

Quân khu Kharkov được thành lập lần thứ hai theo Lệnh số 39 của Bộ quân sự của Chính phủ Công-Nông lâm thời Ukraina, ngày 27 tháng 1 năm 1919. Quân khu này kiểm soát quân đội trên địa bàn các tỉnh Yekaterinoslav, Poltava, Kharkov và Chernigov. Trụ sở của Bộ Tổng tham mưu toàn Ukraina được sử dụng để thành lập ủy ban quân sự quân khu (trụ sở chính), và trực thuộc Hội đồng quân sự cách mạng của Mặt trận phía Nam vào ngày 8 tháng 6. Quân khu được giao nhiệm vụ huấn luyện các đơn vị dự bị cho mặt trận. Vào ngày 10 tháng 5, để đàn áp cuộc nổi dậy của binh sĩ Hồng quân dưới quyền Nykyfor Hryhoriv, Kliment Voroshilov nắm quyền chỉ huy tạm thời quân đội của quân khu cho đến ngày 25 tháng 5, khi cuộc nổi dậy bị đánh bại. Vào tháng 6, địa bàn quân khu bị Lực lượng Vũ trang Nam Nga thuộc phe Bạch vệ tiếp quản, và cuộc tiến công của Quân tình nguyện vào Kharkov buộc trụ sở chính phải di tản khỏi thành phố trước khi nó bị chiếm. Sau khi rút đi, quân ủy quân khu lần lượt được đặt tại Sumy, Romny và Bryansk. Vào ngày 1 tháng 9, họ chuyển đến Moskva và bị giải thể vào ngày 16 tháng 9.

Sau khi quân Bạch vệ rút lui khỏi địa bàn, quân khu được tái lập theo Lệnh số 118/23 của Hội đồng quân sự cách mạng ngày 23 tháng 1 năm 1920, kiểm soát quân đội trên địa bàn của các tỉnh Yekaterinoslav, Donets, Poltava, Taurida và Kharkov. Ủy ban quân sự của Quân khu Yaroslavl đã bị giải thể được sử dụng để quản lý ủy ban quân sự quân khu mới, và nó trực thuộc Hội đồng quân sự cách mạng của Mặt trận Tây Nam. Ngày 23 tháng 2, ban tham mưu Quân đội Dự bị Ukraina được sáp nhập với trụ sở quân khu. Quân khu được chuyển sang quyền kiểm soát của Tư lệnh Lực lượng vũ trang Ukraina và Krym Mikhail Frunze vào ngày 3 tháng 12, sau thất bại của những quân Bạch vệ cuối cùng ở Krym. Tỉnh Nikolayev và tỉnh Odessa trở thành một phần của quân khu vào tháng 5 năm 1921. Quân đội của quân khu đã chiến đấu với quân du kích Ukraina chống Liên Xô trong thời kỳ này, và vào ngày 21 tháng 4 năm 1922, quân khu này được sáp nhập với Quân khu Kiev để thành lập Quân khu Tây Nam, và nhanh chóng trở thành Quân khu Ukraina.

;Tư lệnh Các tư lệnh sau đây đã lãnh đạo ủy ban quân sự quân khu từ năm 1919 đến năm 1920:

  • Sergey Kozyura (tháng 2–6 năm 1919)
  • A.I. Kashkarov (tháng 6–8 năm 1919)
  • Alexander Surik (tháng 8–9 năm 1919)
  • Vitaly Sharapov (tháng 2–7 năm 1920)
  • Ivan Shelykhmanov (tháng 7–9 năm 1920)
  • Georgy Bazilevich (tháng 9–10 năm 1920) Các tư lệnh dưới đây lãnh đạo quân khu giữa năm 1920 và 1922:
  • Fyodor Orlov (tháng 1–2 1921)
  • Robert Eideman (tháng 3–6 1921)
  • August Kork (tháng 4 1921–tháng 4 1922)

Cơ cấu thứ hai (1935–1941)

Quân khu được tái lập theo Lệnh số 079 của Ủy ban Quốc phòng Nhân dân (NKO), ngày 17 tháng 5 năm 1935, chia Quân khu Ukraina thành Quân khu Kiev và Kharkov. Ban đầu quân khu bao gồm các tỉnh Dnipropetrovsk, Donetsk và Kharkov, cũng như Krym. Vào ngày 21 tháng 8 năm 1937, tư lệnh quân khu là Komandarm bậc 2 Ivan Dubovoy bị bắt trong cuộc Đại thanh trừng. Tháng 10 năm 1939, khi Quân khu Odessa được thành lập, Krym và tỉnh Dnipropetrovsk được chuyển đến quân khu mới, và ranh giới quân khu thay đổi để chỉ bao gồm các tỉnh Voroshilovgrad, Poltava, Stalino (trước là Donetsk), Sumy, Kharkov, và Chernigov. Năm đó, quân khu bắt đầu tái vũ trang và tái tổ chức các đơn vị của mình, nhưng quá trình này chưa hoàn tất khi Chiến dịch Barbarossa của Đức bắt đầu vào ngày 22 tháng 6 năm 1941.

Trung tướng Andrey Smirnov nắm quyền chỉ huy quân khu vào ngày 18 tháng 12 năm 1940. Sau cuộc xâm lược, Quân khu Kharkov huy động lính nghĩa vụ và thành lập các đơn vị mới, bao gồm Tập đoàn quân 18 được hình thành từ các bộ phận của trụ sở quân khu dưới quyền chỉ huy của Smirnov. Tập đoàn quân 18 được gửi đến Mặt trận phía Nam vào ngày 25 tháng 6. Vào tháng 10, khi quân Đức tiếp cận Kharkov sau một loạt chiến thắng, trụ sở quân khu chuyển đến Voroshilovgrad và sau đó là Stalingrad. Quân khu bị giải thể vào ngày 26 tháng 11 năm 1941, với trụ sở chính được sử dụng để thành lập Quân khu Stalingrad.

;Tư lệnh Các sĩ quan sau chỉ huy quân khu từ năm 1935 đến 1941:

  • Komandarm bậc 2 Ivan Dubovoy (tháng 7 năm 1935–tháng 8 năm 1937)
  • Komandarm bậc 2 Semyon Timoshenko (tháng 9 năm 1937–tháng 2 năm 1938)
  • Komdiv Filipp Yershakov (tháng 2–4 năm 1938)
  • Komkor Ilya Smirnov (tháng 4 năm 1938–tháng 5 năm 1940)
  • Trung tướng Mikhail Kovalyov (tháng 5–12 năm 1940)
  • Trung tướng Andrey Smirnov (ngày 18 tháng 12 năm 1940 –7 năm 1941)
  • Thiếu tướng Alexander Chernikov (tháng 7–10 năm 1941; acting)
  • Trung tướng Vasily Kuznetsov (tháng 10–11 năm 1941)
  • Thiếu tướng Nikolay Feklenko (tháng 11 năm 1941; quyền)

Cơ cấu thứ ba (1943–1946)

Quân khu được cải tổ theo lệnh của NKO ngày 25 tháng 9 năm 1943, sau khi giành lại địa bàn trong trận sông Dnepr và cuộc tấn công chiến lược Donbass. Quân khu bao gồm các tỉnh Voroshilovgrad, Dnipropetrovsk, Zaporizhia , Poltava, Stalino, Sumy, Kharkov, và Chernigov, cũng như Krym. Tỉnh Chernigov chỉ là một phần của quân khu trong thời gian ngắn, và được chuyển giao cho Quân khu Kiev được tái lập vào ngày 15 tháng 10. Quân khu được giao nhiệm vụ thành lập các đơn vị mới và chuẩn bị các đơn vị hành quân tăng viện cho mặt trận. Các đơn vị công binh của quân khu đã tham gia rà phá bom mìn và dọn dẹp thiết bị chưa nổ. Vào ngày 18 tháng 12 năm 1944, Krym được chuyển giao cho Quân khu Odessa được tái lập.

Theo lệnh NKO ngày 9 tháng 7 năm 1945, sau khi chiến tranh kết thúc, quân khu được chuyển sang sức mạnh thời bình. Trụ sở quân khu cũ và trụ sở Tập đoàn quân 21 được sáp nhập để tạo thành trụ sở mới cho quân khu. Theo lệnh tương tự, các tỉnh Sumy và Poltava được chuyển đến Quân khu Kiev và tỉnh Zaporizhia được chuyển cho Quân khu Taurida. Trong vài tháng tiếp theo, quân khu cho xuất ngũ binh sĩ trên lãnh thổ của mình. Vào tháng 8, Quân đoàn súng trường cận vệ 14 đến Dnipropetrovsk từ Vyborg cùng với các sư đoàn súng trường 11 và 288. Sư đoàn súng trường 44 tại Pavlograd gia nhập quân đoàn vào tháng 11. Ba sư đoàn của quân đoàn giải thể vào tháng 2 năm 1946, và được thay thế bằng các Sư đoàn súng trường 86, 321 và 326 từ Quân đoàn súng trường 116. Quân đoàn súng trường 69 cũng được rút về khu vực Lugansk, và bị giải thể vào ngày 6 tháng 5 cùng với các sư đoàn súng trường 110, 163 và 324. Vào ngày 5 tháng 2, quân khu được tổ chức lại thành một quân khu lãnh thổ và trực thuộc Quân khu Kiev, trước khi bị giải thể vào ngày 6 tháng 5. Các binh sĩ của Quân khu Kharkov gia nhập Quân khu Kiev.

;Tư lệnh Các sĩ quan sau chỉ huy quân khu từ năm 1943 đến 1946:

  • Thượng tướng Yakov Cherevichenko (tháng 9–12 năm 1943)
  • Trung tướng Vasily Gerasimenko (tháng 12 năm 1943–tháng 3 năm 1944)
  • Trung tướng Stepan Kalinin (tháng 3–6 năm 1944)
  • Thiếu tướng (promoted to Trung tướng 2 November 1944) Pavel Kurbatkin (tháng 6 năm 1944–tháng 7 năm 1945)
  • Tướng lục quânl Ivan Tyulenev (tháng 7 năm 1945–tháng 3 năm 1946)
  • Trung tướng Filipp Parusinov (tháng 3–5 năm 1946; quyền)
👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Quân khu Kharkov** () là một quân khu của Đế quốc Nga, nước Nga Xô viết và Liên Xô. Trong suốt lịch sử, trụ sở quân khu nằm tại thành phố Kharkov tại phần đông
thumb|right|[[quân khu Đế quốc Nga|Các quân khu của Đế quốc Nga năm 1913]] **Quân khu Kiev** (; , viết tắt ) là một quân khu của Lục quân Đế quốc Nga và sau đó là
Ở Liên Xô, một **quân khu** (tiếng Nga: **вое́нный о́круг**, voyenny okrug) là một tổ hợp theo lãnh thổ các đơn vị quân đội, quân binh chủng, trường quân sự và các cơ sở hành
**Quân khu Taurida** là một quân khu của Liên Xô. Quân khu được hình thành từ trụ sở của Tập đoàn quân Duyên hải đặc biệt và Tập đoàn quân 22 vào mùa hè năm
right Trong Quân đội Đế quốc Nga, **quân khu** (, _voyenny okrug_) là tập hợp lãnh thổ của các đơn vị quân đội, tổ chức cấu thành, học viện, và các đơn vị quân sự
**Tập đoàn quân 18** là một đơn vị quân sự chiến lược cấp tập đoàn quân của Hồng quân Liên Xô, hoạt động chủ yếu trong chiến tranh thế giới thứ hai. ## Lịch sử
**Tập đoàn quân 23** là một đơn vị quân sự chiến lược cấp tập đoàn quân của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. Nó được thành lập vào tháng 5 năm 1941
**Chính ủy Tập đoàn quân bậc 2** ( là một cấp bậc quân sự cao cấp của các sĩ quan chính trị trong Hồng quân và Hải quân Liên Xô. Cấp bậc này chỉ xếp
**Chiến dịch Kharkov (1941)**, theo cách gọi của Wilhelm Keitel là **Trận Kharkov lần thứ nhất**, còn theo lịch sử của Nga là **Chiến dịch phòng thủ Sumy-Kharkov**, diễn ra từ ngày 1 tháng 10
thumb|right|Bản đồ tỉnh Kharkov từ năm 1890 đến năm 1906 **Tỉnh Kharkov** (, ) là một tỉnh của Đế quốc Nga được thành lập vào năm 1835. Tỉnh này bao trùm khu vực lịch sử
**Phương diện quân Tây Nam** (tiếng Nga: _Ю́го-За́падный фро́нт_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. Địa bàn tác chiến của phương diện quân
**Phương diện quân Thảo Nguyên** (tiếng Nga: _Степной фронт_), còn gọi là **Phương diện quân Step**, là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. Địa
**Tập đoàn quân 69** () là một đơn vị quân sự chiến lược cấp Tập đoàn quân của Hồng quân Liên Xô trong Chiến tranh thế giới thứ hai. ## Lịch sử ### Chiến tranh
**Tập đoàn quân 27** là một đơn vị quân sự chiến lược cấp tập đoàn quân của Hồng quân Liên Xô, hoạt động trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai. ## Thành lập
**Chiến dịch phản công Belgorod–Kharkov** là một chuỗi các hoạt động quân sự lớn do hai phương diện quân Voronezh và Thảo nguyên của Quân đội Liên Xô làm chủ lực, có sự hỗ trợ
**Phương diện quân Voronezh** (tiếng Nga: _Воронежский фронт_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. ## Lịch sử Phương diện quân Voronezh được thành
**Cụm tập đoàn quân Nam** () là một phiên hiệu đại đơn vị cấp Cụm tập đoàn quân của Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai. Đơn vị là một trong những cánh quân
**Phương diện quân Bryansk** (tiếng Nga: _Брянский фронт_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. ## Lịch sử ### Thành lập lần thứ nhất
**Yakov Timofeyevich Cherevichenko** (; 12 tháng 10 năm 1894 - 4 tháng 7 năm 1976) là một tướng lĩnh Liên Xô trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại. ## Tiểu sử ### Thế chiến thứ
**Mikhail Prokofievich Kovalyov** (; - 31 tháng 8 năm 1967) là một sĩ quan cao cấp trong quân đội Liên Xô, hàm Thượng tướng. Mikhail Kovalyov sinh ra trong một gia đình nông dân ở
**Avgust Ivanovich Kork** (tiếng Nga: Август Иванович Корк, hay còn gọi là Аугуст Яанович Корк; 11 tháng 6 năm 1937) là một người Estonia, chỉ huy cấp tập đoàn quân của Hồng quân Liên Xô,
**Cụm tập đoàn quân B** (tiếng Đức: __) là một phiên hiệu đại đơn vị cấp Cụm tập đoàn quân của Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai. Theo thời gian, phiên hiệu này
**Sergey Semyonovich Biryuzov** () (21/8/1904-19/10/1964) là một nhà quân sự nổi tiếng của Liên Xô. Ông được phong hàm Nguyên soái Liên Xô, và từng giữ cương vị Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Liên
**Phương diện quân Nam** (tiếng Nga: _Южный фронт_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. ## Lịch sử ### Thành lập Phương diện quân
**Erich von Manstein** tên đầy đủ là **Fritz Erich Georg Eduard von Lewinski** (24 tháng 11 năm 1887 – 10 tháng 7 năm 1973) là một chỉ huy cấp cao của quân đội Đức thời
phải|[[Mikhail Nikolayevich Tukhachevsky trong bộ quân phục Tư lệnh Quân khu (_Командующий войсками военного округа_) - một tác giả quan trọng của học thuyết tác chiến chiều sâu.]] **Tác chiến chiều sâu** (Tiếng Nga: _Теория
**Aleksandr Mikhailovich Vasilevsky** (tiếng Nga: _Алекса́ндр Миха́йлович Василе́вский_) (1895-1977) là một chỉ huy Hồng quân nổi tiếng, từ năm 1943 là Nguyên soái Liên bang Xô viết. Ông là Tổng Tham mưu trưởng Hồng quân
**Sergey Sergeyevich Varentsov** (; , Dmitrov, tỉnh Moskva - 1 tháng 3 năm 1971, Moskva) là một tướng lĩnh cao cấp của quân đội Liên Xô, Chánh nguyên soái Pháo binh (6 tháng 5 năm
**Trận Stalingrad** (23 tháng 8 năm 19422 tháng 2 năm 1943) là một trận đánh lớn diễn ra trong Chiến tranh Xô-Đức giữa Đức Quốc xã cùng với các nước thuộc địa và Hồng quân
**Georgy Konstantinovich Zhukov** (; , 1 tháng 12 năm 1896 – 18 tháng 6 năm 1974) là một sĩ quan cấp tướng và là Nguyên soái Liên Xô. Ông cũng từng là Tổng Tham mưu
**Chiến tranh giành độc lập Ukraina** là một cuộc xung đột quân sự có sự tham gia của nhiều bên từ năm 1917 đến năm 1921, chứng kiến sự hình thành và phát triển của
**Mikhail Stepanovich Shumilov** (; 17 tháng 11 năm 1895 - 28 tháng 6 năm 1975) là một tướng lĩnh Hồng quân Liên Xô trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại. Ông từng là chỉ huy
**Trận Sokolovo** là trận đánh đầu tiên của Tiểu đoàn độc lập Tiệp Khắc 1, tiền thân của Quân đội nhân dân nước Cộng hòa XHCN Tiệp Khắc sau này, diễn ra từ ngày 8
**Kliment Yefremovich Voroshilov** (tiếng Nga: Климе́нт Ефре́мович Вороши́лов; 1881 – 1969) là nhà cách mạng Nga, chỉ huy quân đội Liên Xô, lãnh đạo Đảng và nhà nước Liên Xô, người tham gia vào Nội
**Chiến dịch Barbarossa** (), còn được gọi là **Cuộc xâm lược của Đức vào Liên Xô** là mật danh của chiến dịch xâm lược Liên Xô do Quân đội Đức Quốc xã tiến hành trong
**Fedor von Bock** (3 tháng 12 năm 1880 – 4 tháng 5 năm 1945) là một Thống chế quân đội Đức thời Chiến tranh thế giới thứ hai. Ông đã đóng một vai trò quan
**Hermann Hoth** (1885-1971) là một Đại tướng Lục quân Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Ông là một trong những chỉ huy hàng đầu của binh chủng Tăng-Thiết giáp Đức, đã dẫn dắt
**Rodion Yakovlevich Malinovsky** (tiếng Nga: _Родион Яковлевич Малиновский_) (sinh ngày: 23 tháng 11 năm 1898, mất ngày 31 tháng 3 năm 1967) là một chỉ huy cao cấp của Hồng quân trong Chiến tranh thế
**Ivan Khristoforovich Bagramyan** (tiếng Nga: _Иван Христофорович Баграмян_) hay **Hovhannes Khachatury Baghramyan** (tiếng Armenia: _Հովհաննես Խաչատուրի Բաղրամյան_) (sinh ngày 2 tháng 12, lịch cũ ngày 20 tháng 11, năm 1897, mất ngày 21 tháng 9
**Iona Emmanuilovich Yakir** (tiếng Nga: Иона Эммануилович Якир; ngày 3 tháng 8 năm 1896 - 12 tháng 6 năm 1937) là một chỉ huy Hồng quân và là một trong những nhà cải cách quân
**Vasily Nikolayevich Gordov** (; 12 tháng 12 năm 1896 - 24 tháng 8 năm 1950) là một Thượng tướng Quân đội Liên Xô và Anh hùng Liên Xô. Ông từng giữ chức Tư lệnh Phương
**Roberts Eidemanis** (, _Robert Petrovich Eideman_; 9 tháng 5 năm 1895 – 12 tháng 6 năm 1937) là một chỉ huy quân sự, nhà văn và nhà thơ người Liên Xô gốc Latvia. Bị hành
**Dmitry Timofeyevich Kozlov** (; 4 tháng 11 (lịch cũ: 23 tháng 10) năm 1896, Razgulyayka, nay thuộc Nizhny Novgorod Oblast - 6 tháng 12 năm 1967, Minsk) là một chỉ huy quân sự Liên Xô,
**Yefim Afanasyevich Shchadenko** (; 27 [lịch cũ 12] tháng 9 năm 1885, làng Kamenskaya, nay là thị trấn Kamensk-Shakhtinsky, Đế quốc Nga - 6 tháng 9 năm 1951, Moskva), hay **Yukhim Afanasiyovich Shchadenko** (), là
nhỏ|phải|Lực lượng huy động của Nga vào năm 2022 với trang bị [[súng trường AK thô sơ]] nhỏ|phải|Lực lượng quân Nga được huy động ở Crưm nhỏ|phải|Lực lượng dự bị động viên của Nga buộc
**Hạm đội Biển Đen** () là một đơn vị thuộc Hải quân Nga hoạt động ở Biển Đen và Địa Trung Hải kể từ thế kỷ 18. Hạm đội này đóng ở nhiều bến cảng
**Trận Smolensk** là một trận đánh lớn trong Chiến tranh Xô-Đức thuộc khuôn khổ chiến dịch Barbarossa năm 1941. Đây là một tổ hợp các trận đánh phòng thủ kết hợp với các hoạt động
**Chiến dịch Krym – Sevastopol (1941–1942)** bao gồm toàn bộ các trận chiến đấu của quân đội Xô Viết và quân đội Đức Quốc xã cùng với quân Romania tại bán đảo Krym từ tháng
**Lực lượng vũ trang Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết**(tiếng Nga: _Вооружённые Силы Союза Советских Социалистических Республик_) là lực lượng vũ trang của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết
**_Schutzstaffel_** (**SS**; cách điệu hóa bằng chữ Rune Armanen là