✨Phạm Bạch Hổ

Phạm Bạch Hổ

Phạm Bạch Hổ (; 910 - ?? ) tên xưng Phạm Phòng Át (), là võ tướng các triều nhà Ngô, nhà Đinh và là một sứ quân trong loạn 12 sứ quân cuối thời nhà Ngô trong lịch sử Việt Nam. Ông là người gốc Nam Sách, Hải Dương nhưng được sinh ra và lớn lên ở Đằng Châu, Hưng Yên. Ngày nay, ông được thờ ở nhiều nơi thuộc vùng châu thổ sông Hồng.

Phạm Bạch Hổ từng tham gia trận Bạch Đằng, 938 chống quân Nam Hán. Ngô Quyền mất, ông chiếm giữ đất Đằng Châu và trở thành một tướng trong loạn 12 sứ quân (966 - 968). Sau theo Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp các sứ quân khác. Sơ đồ vị trí [[12 sứ quân]]

Thế lực họ Phạm

Theo Đại Nam nhất thống chí, Phạm Bạch Hổ sinh ngày 10 tháng 1 năm Canh Ngọ (tức 21 tháng 2 năm 910) Ông nội là Hồng Châu tướng quân Phạm Trí Dũng (Phạm Trì). Cha ông là Phạm Lệnh Công người lộ Nam Sách Giang (nay là Nam Sách- Hải Dương) là một công thần dưới triều Ngô vương. Lệnh Công có tiệm buôn ở Đằng Châu, tại đây ông có vợ và sinh ra Phạm Bạch Hổ. Tương truyền mẹ ông nằm mộng thấy Sơn Tinh và Hổ trắng mà có mang nên đặt tên ông là Bạch Hổ. Lớn lên Bạch Hổ có thân hình vạm vỡ, mạnh mẽ như hổ, thông minh hơn người, văn võ song toàn.

Ông sinh ra trong một dòng họ giàu truyền thống võ nghệ, đời đời làm hào trưởng vùng Trà Hương. Ông nội là Phạm Chí Dũng vốn là Hồng châu tướng quân. Anh trai ông Phạm Man là Tham chính đô đốc đời Nam Tấn vương Ngô Xương Văn. Các cháu ông như Phạm Hạp và Phạm Cự Lạng đều là các tướng giỏi thời Đinh được người đời sau ca tụng là "Giao Châu thất hùng". Con gái ông, Phạm Thị Ngọc Dung là vợ của Ngô Xương Ngập và sinh ra Ngô Xương Xí, sau trở thành Sứ quân thứ nhất trong 12 sứ quân.

Sự nghiệp

Đánh Nam Hán

Phạm Bạch Hổ từng làm hào trưởng đất Đằng Châu, theo giúp Dương Đình Nghệ

Khi Ngô Quyền mất (944), Dương Tam Kha cướp ngôi vua của Ngô Xương Ngập. Vùng núi Hun Sơn của cha con ông là nơi che chở cho Ngô Xương Ngập 2 lần trốn thoát khỏi truy lùng của họ Dương. Sau khi Đỗ Cảnh Thạc và Dương Cát Lợi giúp Ngô Xương Văn lật đổ Dương Tam Kha, Phạm Bạch Hổ tham gia giúp Hậu Ngô Vương.

Sứ quân trấn Hải Đông

Năm 965, Hậu Ngô Vương mất, các hào kiệt trong nước nổi lên cát cứ từng vùng. Phạm Bạch Hổ chiếm giữ Đằng Châu và là một trong mười hai sứ quân thời đó. Những dấu tích ở Côn Sơn, Đông Triều cho thấy khu vực chiếm đóng của Phạm Bạch Hổ còn lan ra cả vùng đông bắc, tức khu vực Hải Dương, Quảng Ninh, Hải Phòng ngày nay và khu vực núi Hun Sơn nơi mà Phạm Lệnh Công cha ông từng giấu Ngô Xương Ngập cũng là một căn cứ quân sự của ông, từng diễn ra nhiều trận đánh với tướng Nguyễn Bặc của Đinh Bộ Lĩnh. Tên núi Hun Sơn gắn với sự kiện tướng quân Hoa Lư là Nguyễn Bặc, dùng kế hỏa công, lợi dụng gió thổi đốt lửa hun khói vào doanh trại của Phạm Bạch Hổ.

Ngoài việc chiếm đóng Hải Đông, Phạm Phòng Át còn mở rộng lãnh địa bằng các cuộc tấn công về phía nam thuộc lãnh địa Kỳ Bố Hải Khẩu của sứ quân Trần Lãm và về phía bên kia sông Hồng tại các vùng Hà Nam, Nam Định ngày nay. Thần tích làng Ngâu Khê và miếu Lộc Thọ ở Thái Bình cho biết các tướng Phạm Công Thanh, Phạm Công Hoài, Phạm Công Đinh, Phạm Thành là những người cũng Đinh Bộ Lĩnh theo về với sứ quân Trần Lãm và trực tiếp tham gia chiến tranh với sứ quân Phạm Bạch Hổ. Qua khảo sát thực địa tại cánh đồng Nội Phủ ở Thái Bình, nơi Trần Lãm cho Đinh Bộ Lĩnh cùng các tướng đắp thành, đất để ngăn chặn sứ quân Phạm Phòng Át và Lã Đường từ Hưng Yên sang đánh hiện còn sót lại phế tích của bức tường thành bằng đất (dân ở đây quen gọi là đường đất dài – vì tường thành cũ rất dài) có hình chữ nhật, chiều dài khoảng 700 - 800m, rộng khoảng 500 - 600m. Theo thần phả, thần tích các làng thờ Lê Hoàn ở làng Đô Kỳ (Đông Đô), làng Bái (xã Minh Tân) cũng ở Thái Bình thì Lê Hoàn đã từng đánh nhau với quân của Phạm Bạch Hổ tại vùng đất nói trên.

Thần tích đình Mai Động ở Hà Nam cho biết hai anh em Phạm Hán và Phạm Phổ gặp thời loạn 12 sứ quân, bèn kết giao hào kiệt bốn phương, chiêu mộ trai tráng thiết lập đồn lũy trên đất Mai Khu và đánh nhau với sứ quân Phạm Phòng Át và Ngô Nam vài chục trận; hai ông giữ phần thắng.

Căn cứ vào tư liệu còn lưu giữ tại chùa Đô Quan (Yên Khang, Ý Yên, Nam Định) cùng truyền thuyết ở địa phương thì từ thế kỷ thứ 10, sứ quân Phạm Phòng Át về đây lập nên phường Quán Đổ. Thần phả làng Nhuệ Khê, thần tích đình Cát Đằng và Phủ Bà ở Nam Định đều cho biết các tướng Đinh Đức Đạt, Đinh Đức Thông, Hoàng Thị Đậu, Nguyễn Đức Long là những người theo Đinh Bộ Lĩnh và trực tiếp tham gia chiến tranh với sứ quân Phạm Bạch Hổ. Nhờ có công thu phục được sứ quân Phạm Bạch Hổ và đánh dẹp sứ quân Đỗ Cảnh Thạc mà Đức Long được phong làm Hùng trấn tam kỳ giang châu tướng quân, Đức Học được phong là Nhuệ Khê mạc trung duệ tiết tướng quân.

Hàng phục nhà Đinh

Đinh Bộ Lĩnh được sứ quân Trần Lãm giao toàn bộ binh quyền, mang quân đánh dẹp Loạn 12 sứ quân. Đầu năm 966, sau ít nhất 3 lần giao tranh tại Hải Dương, Thái Bình và Nam Định, Phạm Bạch Hổ đã mang quân về Hoa Lư theo hàng Đinh Bộ Lĩnh, được phong là thân vệ Đại tướng quân. So với 2 tướng cũ nhà Ngô khác là Kiều Công Hãn và Đỗ Cảnh Thạc vẫn kiên quyết chống cự ngay cả khi các hậu duệ nhà Ngô đã hàng phục và về với nhà Đinh, có thể Phạm Bạch Hổ là người ít có tham vọng bá vương hơn nhưng có con mắt tinh đời, biết nhìn nhận thời thế nên thoát khỏi cảnh binh đao, chết chóc.

Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh dẹp xong loạn 12 sứ quân, lập ra nhà nước Đại Cồ Việt, lên ngôi ở kinh đô Hoa Lư, tức là Vua Đinh Tiên Hoàng. Phạm Bạch Hổ trở thành tướng nhà Đinh, được vua Đinh phong chức Thân vệ Đại tướng quân.

Ngày 16 tháng 11 năm Nhâm Thân (tức 24 tháng 12 năm 972), Phạm Bạch Hổ mất tại quê nhà, thọ 62 tuổi. Đinh Tiên Hoàng đã sắc cho nhân dân lập đền thờ, các triều đại đều phong tặng ông là: "Khai thiên hộ quốc tối linh thần". Tuy nhiên một số nguồn tin khác cho biết ông còn tham gia đánh giặc Tống trên sông Bạch Đằng lần thứ 2 và sống đến tận khi Lê Hoàn lên ngôi hoàng đế thay nhà Đinh, tức năm 983, thọ 73 tuổi.

Tôn vinh

Phạm Bạch Hổ được nhân dân nhiều nơi như: Hưng Yên, Hà Nội, Hải Dương, Ninh Bình, Thái Bình,... tôn thờ. Hầu hết các nơi thờ này thuộc khu vực đạo Hải Đông xưa, tức vùng Đông Bắc Việt Nam ngày nay vốn gắn bó nhiều với cuộc đời và sự nghiệp của ông.

Có thể coi đền chính thờ Phạm Phòng Át là di tích đền Mây thuộc thôn Đằng Châu, phường Lam Sơn, thị xã Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên. Nhắc đến Hưng Yên, không thể không kể đến đền Mây, bởi từ lâu ngôi đền này đã nổi tiếng với câu ca: "Trăm cảnh nghìn cảnh, không bằng bến Lảnh, đò Mây". Trong đền có bức đại tự ghi: “Thái Bình Vương phủ”, nhân dân coi Phạm Bạch Hổ là vị vua của xứ Thái Bình xưa. Đền Mây được xây dựng vào thời Đinh – Tiền Lê và được trùng tu vào thời Nguyễn. Đền Mây là ngôi đền có nhiều giá trị văn hóa đặc sắc còn lưu giữ đến tận ngày nay với 27 pho tượng cổ mang phong cách thời Hậu Lê được thờ trong đền. Lễ hội đền Mây là một trong những lễ hội hội tụ nhiều nét văn hóa truyền thống của người dân Hưng Yên. Hàng năm, đền Mây thường tổ chức lễ hội vào ba dịp là: Từ 8 - 16 tháng Giêng, từ 12 - 18 tháng 11 và từ 16 - 24 tháng 6 âm lịch.

Tại Hưng Yên, ông còn được thờ ở 4 di tích khác là đình Xích Đằng, phường Nam Sơn và đền Hàng Cá, phường Minh Khai đều thuộc thành phố Hưng Yên; Lăng mộ và đền thờ ở làng Ngọc Đồng, xã Ngọc Thanh, huyện Kim Động.

Có một đền Vua Mây khác thuộc thôn Đại Đê, xã Đại An, Vụ Bản, Nam Định cũng là [http://www.tienphong.vn/van-nghe/den-vua-may-bi-lang-quen-599479.tpo nơi thờ] danh tướng Phạm Bạch Hổ. Ông cũng được thờ ở đền Thi Liệu và các đình, chùa thuộc xã Đại Thắng, Vụ Bản. Thôn Bất Di, xã Quang Trung, Vụ Bản cũng có đền Vua Mây thờ Phạm Bạch Hổ.

Tại thung Thắm thuộc quần thể danh thắng Tràng An (Ninh Bình) còn nhiều dấu tích liên quan đến cống hiến của ông đối với triều đại nhà Đinh.

Phạm Bạch Hổ cũng được tôn thờ là Thành hoàng làng Phương Mạc - Phương Đình, Đan Phượng, Hà Nội và đình Thanh Mạc, xã Thanh Đa, Phúc Thọ, Hà Nội. Ngoài ra, ông cũng được phối thờ cùng Cao Sơn ở làng Duyên Yết, xã Hồng Thái, Phú Xuyên, Hà Nội.

Phạm Phòng Át cũng được thờ ở làng Đông Hải, xã Đông Vinh, Đông Hưng, Thái Bình (xưa đây là làng Văn Ông, tổng Đồng Hải, huyện Thanh Quan).

;Tên đường: Đường Phạm Bạch Hổ ở thành phố Hưng Yên, có một con đường trục chính mang tên đường Phạm Bạch Hổ đi xuyên trung tâm thành phố. Đường Phạm Bạch Hổ ở Phương Đình, Đan Phượng, Hà Nội nối từ tỉnh lộ 417 ra đê sông Đáy. *Đường Phạm Bạch Hổ ở thành phố Ninh Bình nối từ đường Nguyễn Công Trứ vào phường Ninh Sơn.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Phạm Bạch Hổ** (; 910 - ?? ) tên xưng **Phạm Phòng Át** (), là võ tướng các triều nhà Ngô, nhà Đinh và là một sứ quân trong loạn 12 sứ quân cuối thời
Phạm Bạch Hổ (chữ Hán: 范白虎; 910 - 972) tên xưng Phạm Phòng Át (范防遏), là võ tướng các triều nhà Ngô, nhà Đinh và là một sứ quân trong loạn 12 sứ quân cuối
**Hình tượng con hổ** hay **Chúa sơn lâm** đã xuất hiện từ lâu đời và gắn bó với lịch sử của loài người. Trong nhiều nền văn hóa khác nhau thế giới, hình ảnh con
**Phạm Đình Hổ** là một phường thuộc quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, Việt Nam. ## Địa lý Phường Phạm Đình Hổ nằm ở phía bắc quận Hai Bà Trưng, có vị trí
**Tục thờ Hổ** hay **tín ngưỡng thờ Hổ** là sự tôn sùng, thần thánh hóa **loài hổ** cùng với việc thực hành hoạt động thờ phượng hình tượng con hổ bằng các phương thức khác
**Bạch tuộc** là một loại động vật không xương sống với thân ngắn, mềm, hình ôvan (oval), thuộc bộ **Octopoda** sống dưới đáy biển. Có khoảng 299 đến 300 loài bạch tuộc trên Trái Đất,
Nguyên Trưởng Ban Ban liên lạc họ Phạm toàn quốc Việt Nam TS. Phạm Khắc Di đã có 2 câu thơ khái quát tôn chỉ mục đích hoạt động của Họ Phạm chúng ta,
nhỏ|phải|Tượng hổ trong một ngôi chùa Phật giáo Trung Hoa Tại Trung Quốc, tập tục **sùng bái và thờ cúng hổ** cũng bắt nguồn từ khu vực hổ thường xuyên hoạt động, sau đó lan
phải|nhỏ|300x300px|Hổ là con vật được nhắc đến rất nhiều trong tín ngưỡng dân gian **Hình tượng con hổ** hay **Chúa sơn lâm** đã xuất hiện từ lâu đời và gắn bó với lịch sử của
**Hổ** hay còn gọi là **cọp**, **hùm** (và các tên gọi khác như **Ông ba mươi**, **kễnh**, **khái**, danh pháp khoa học: _Panthera tigris_) là một loài động vật có vú thuộc họ Mèo được
nhỏ| Đình thờ ở Thụy Trà, Nam Trung, Nam Sách, Hải Dương **Phạm Lệnh Công** (chữ Hán: 范令公, 889 - 951), có giả thuyết cho rằng tên thật là **Phạm Chiêm** (范詹), là một tướng
**Hổ Siberia**, **hổ Amur**, **hổ Triều Tiên**, **hổ Ussuri** hay **hổ Mãn Châu** hoang dã; biệt danh: "Chúa tể rừng Taiga", là một phân loài hổ sinh sống chủ yếu ở vùng núi Sikhote-Alin ở
**Hổ Bengal** hay **Hổ hoàng gia Bengal** (danh pháp khoa học: **_Panthera tigris tigris_**) là một phân loài hổ được tìm thấy nhiều nhất tại Bangladesh, Ấn Độ, Nepal, Bhutan và miền nam Tây Tạng.
phải|nhỏ|300x300px|Hổ phân bố ở Việt Nam là [[Hổ Đông Dương, hiện loài này đang thuộc nhóm nguy cấp]] **Hình tượng con hổ** hay **Chúa sơn lâm** đã xuất hiện từ lâu đời và gắn bó
**Phạm** là một họ thuộc vùng Văn hóa Đông Á, phổ biến ở Việt Nam. Chữ Phạm ở đây theo tiếng Phạn cổ thì đó là chữ "Pha" hoặc chữ "Pho" có nghĩa là "Thủ
Phạm là một họ thuộc vùng Văn hóa Đông Á, phổ biến ở Việt Nam. Chữ Phạm ở đây theo tiếng Phạn cổ thì đó là chữ "Pha" hoặc chữ "Pho" có nghĩa là "Thủ
Hồ Trúc Bạch nhìn từ trên cao. Ảnh chụp đài kỷ niệm chiến thắng bắn rơi máy bay của [[John McCain trong Chiến tranh Việt Nam.]] **Hồ Trúc Bạch** là một hồ thuộc quận Ba
**Hồ Tây** (với các tên gọi khác trong lịch sử như **Đầm Xác Cáo**, **Hồ Kim Ngưu**, **Lãng Bạc**, **Dâm Đàm**, **Đoài Hồ**) là hồ tự nhiên lớn nhất thành phố Hà Nội, hiện thuộc
phải|nhỏ|401x401px|"Hổ tọa" tác phẩm của Kishi Chikudo khoảng đầy thế kỷ XIX **Hình tượng con hổ** hay **Chúa sơn lâm** đã xuất hiện từ lâu đời và gắn bó với lịch sử của loài người.
**Họ Sơn ca** (danh pháp khoa học: **_Alaudidae_**) là một họ chim dạng sẻ, chủ yếu sinh sống tại Cựu thế giới. Chỉ một loài, sơn ca bờ biển là có sinh sống ở Bắc
**Họ Diệc** (danh pháp khoa học **_Ardeidae_**) là họ chứa một số loài chim lội nước, từng có lúc được xếp trong bộ Hạc (_Ciconiiformes_). Các tên gọi phổ biến của chúng trong tiếng Việt
**Họ Cẩm chướng** (danh pháp khoa học: **Caryophyllaceae**) là một họ thực vật hạt kín. Họ này được gộp trong bộ Caryophyllales. Nó là một họ lớn, với khoảng từ 82 đến trên 120 chi
**Họ Đào kim nương** hay **họ Sim** (theo tên gọi của chi _Rhodomyrtus_), còn gọi là **họ Hương đào** (theo chi _Myrtus_) (danh pháp khoa học: **Myrtaceae**) là một họ thực vật hai lá mầm,
**Họ Ô liu** hay **họ Nhài** (danh pháp khoa học: **Oleaceae**), là một họ thực vật có hoa gồm có 24-26 chi hiện còn sinh tồn (1 chi đã tuyệt chủng). Thành phần họ này
**Họ Én** hay **họ Nhạn** là một nhóm các loài chim dạng sẻ có danh pháp khoa học **Hirundinidae**. Chúng là những loài chim thích nghi với cuộc sống săn tìm mồi trên không. Nhạn/én
**Bạch Khởi** (chữ Hán: 白起; 332 TCN – 257 TCN) là tướng lĩnh quân sự Trung Quốc cổ đại, làm việc cho nước Tần thời Chiến Quốc. Bạch Khởi được xem là một trong 4
**Nguyễn Bặc** (chữ Hán: 阮匐; 924 - 7 tháng 11 năm 979), hiệu **Định Quốc Công** (定國公), là khai quốc công thần nhà Đinh, có công giúp Đinh Tiên Hoàng đánh dẹp, chấm dứt loạn
**Bạch Hải Đường** (1950–1983, tên thật là **Nguyễn Ngọc Truyện**) quê ở tỉnh Long Xuyên (nay là tỉnh An Giang) là một trong những nhân vật nổi danh nhất ở miền Nam Việt Nam vào
Việc **thờ hổ**, sùng bái loài hổ được ghi nhận một cách đa dạng trên khắp các vùng miền của Việt Nam, từ vùng rừng núi sơn cước cho đến vùng đồng bằng và đến
**Bạch cầu** (tên khoa học: **leukocytes**, tiếng Anh là **White blood cells**, **immune cells** hoặc **immunocytes**) là các tế bào của hệ miễn dịch tham gia bảo vệ cơ thể chống lại cả bệnh truyền
**Bạch Long Vĩ** (chữ Hánː 白龍尾, nghĩa: đuôi rồng trắng; tên cũ: Vô Thủy, Dạ Oanh) là một đảo, đồng thời là một đặc khu thuộc thành phố Hải Phòng, Việt Nam. Đây là đảo
**Bạch Tuyết** tên khai sinh là **Nguyễn Thị Bạch Tuyết** (sinh ngày 24 tháng 12 năm 1945) là nữ nghệ sĩ cải lương danh tiếng, được mệnh danh là "**Cải lương chi bảo**". Trước năm
**Nhà Hồ** (chữ Nôm: 茹胡, chữ Hán: 胡朝, Hán Việt: _Hồ triều_) là một triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi Hồ Quý Ly lên ngôi năm 1400 sau khi
**Tiếu ngạo giang hồ** được coi là một trong những tiểu thuyết đặc sắc nhất của Kim Dung, với nhiều thành công về nội dung, cốt truyện, thủ pháp văn học. _Tiếu ngạo giang hồ_
**Lý Bạch** (chữ Hán: 李白; 701 - 762), tự **Thái Bạch** (太白), hiệu **Thanh Liên cư sĩ** (青蓮居士), là một trong những nhà thơ theo chủ nghĩa lãng mạn nổi tiếng nhất thời Thịnh Đường
**_Bạch xà truyện_** (白蛇傳), còn có tên là **_Hứa Tiên và Bạch Nương Tử_** (許仙與白娘子) là một trong bốn truyền thuyết dân gian lớn của Trung Quốc. Câu chuyện ra đời vào thời Nam Tống
**Phạm Duy** (5 tháng 10 năm 1921 – 27 tháng 1 năm 2013), tên khai sinh **Phạm Duy Cẩn** là nhạc sĩ, nhạc công, ca sĩ, nhà nghiên cứu âm nhạc lớn của Việt Nam.
**Bệnh bạch hầu** là một nhiễm trùng gây ra bởi vi khuẩn _Corynebacterium diphtheriae_. Nó cũng có thể lây truyền qua các vật mang mầm bệnh. Vắc-xin bạch hầu có hiệu quả trong việc phòng
**Lê Thanh Bạch**, thường được biết đến với nghệ danh **Thanh Bạch** (sinh ngày 1 tháng 12 năm 1959 tại xã An Đức, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long) là một người dẫn chương trình,
**Đào** (chữ Hán: 陶) là một trong những họ của người Việt Nam, Triều Tiên, và Trung Quốc. Trong danh sách Bách gia tính, họ này đứng thứ 31, về mức độ phổ biến, họ
Các **quỹ phòng hộ**, **quỹ tự bảo hiểm rủi ro** hay **quỹ đối xung** (hedge fund) là các quỹ đầu tư tư nhân được quản lý chủ động. Họ đầu tư vào một phạm vi
**Phạm Thị Huệ** (sinh năm 1996) là một nữ vận động viên điền kinh người Việt Nam. ## Tiểu sử Phạm Thị Huệ sinh ngày 26 tháng 9 năm 1996 tại thôn Tân Lương xã
use both this parameter and |birth_date to display the person's date of birth, date of death, and age at death) --> | death_cause = | agent = | citizenship = | organization = | employer
**Phạm Băng Băng** (tiếng Trung: 范冰冰, tiếng Anh: _Fan Bingbing_; sinh ngày 16 tháng 9 năm 1981) là một nữ diễn viên người Trung Quốc. Là chủ nhân của một số giải thưởng lớn, cô
**Bạch Kính Đình** (, sinh ngày 15 tháng 10 năm 1993 tại Hoài Nhu, Bắc Kinh, Trung Quốc) là một diễn viên, ca sĩ và người mẫu người Trung Quốc. Anh ấy trở nên nổi
**Đoàn** (chữ Hán: 段) là một họ của người châu Á. Họ này có mặt ở Việt Nam, ở Trung Quốc (chữ Hán: 段, Bính âm: Duàn), ở Triều Tiên và Miến Điện. Chữ Hán
**Phạm Công Tắc** (1890-1959), tự là **Ái Dân**, biệt hiệu **Tây Sơn Đạo**, là một trong những lãnh đạo trong việc hình thành, xây dựng, phát triển và kiện toàn hệ thống tôn giáo của
**Lữ Phạm** (chữ Hán: 呂範; 162-228), tự **Tử Hành**, công thần khai quốc nước Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Thời trẻ Lữ Phạm có tên tự là Tử Hành
**Hồ Quý Ly** (chữ Hán: 胡季犛; 1336 – 1407), tên chữ **Nhất Nguyên** (一元), là vị hoàng đế đầu tiên của nhà nước Đại Ngu trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi vị Hoàng