✨Bạch hầu

Bạch hầu

Bệnh bạch hầu là một nhiễm trùng gây ra bởi vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae. Nó cũng có thể lây truyền qua các vật mang mầm bệnh.

Vắc-xin bạch hầu có hiệu quả trong việc phòng ngừa và có thể được tích hợp chung trong một số công thức vắc-xin. Vào trước thập niên 1980, số ca bệnh trong một năm được tin rằng là vào khoảng một triệu. Vào năm 2015, nó làm thiệt mạng 2,100 người, giảm so với 8,000 ca tử vong trong năm 1990. Ở những khu vực mà bệnh còn phổ biến, hầu hết trẻ em đều nhiễm bệnh. Ở Hoa Kỳ, có 57 trường hợp đã được báo cáo từ năm 1980 đến 2004.

Dấu hiệu và triệu chứng

upright=1.3|thumb|Một giả mạc màu xám, kết dính, dày bao phủ quanh hạch amidan là dấu hiệu điển hình trong bạch hầu. upright=1.3|thumb|Một vết loét do bạch hầu trên chân

Các triệu chứng của bạch hầu thường bắt đầu từ hai đến bảy ngày sau khi nhiễm bệnh, bao gồm sốt 38 °C (100.4 °F) hoặc hơn; ớn lạnh; mệt mỏi; da tím tái; đau họng; khan tiếng; ho; nhức đầu; nuốt khó; nuốt đau; khó thở; thở nhanh; mũi hôi và chảy máu; và sưng hạch. Trong hai đến ba ngày, bạch hầu có thể phá hủy những mô khỏe mạnh trong hệ hô hấp. Mô chết hình thành một lớp màng bao dày, màu xám trong họng hoặc mũi, gọi là "giả mạc". Nó có thể bao quanh những mô trong mũi, amidan, thanh quản, và họng, gây khó thở và khó nuốt. Các triệu chứng cũng có thể bao gồm rối loạn nhịp tim, viêm cơ tim, liệt dây thần kinh sọ và ngoại biên.

Bạch hầu thanh quản

Bạch hầu thanh quản có thể dẫn đến sưng cổ và họng đặc trưng, hay còn gọi là "cổ bò". Sưng họng thường kèm theo tình trạng hô hấp nghiêm trọng, đặc trưng bởi tiếng ho khan, ran, thở rít, khàn giọng, và thở khó; trong quá khứ nó được gọi với nhiều tên khác nhau "bệnh bạch yết hầu", "bệnh yết hầu thật", hoặc đôi khi chỉ đơn giản là "bệnh yết hầu". Bạch hầu thanh quản cực kỳ hiếm ở những quốc gia tiêm phòng vắc-xin bạch hầu mở rộng. Do đó, thuật ngữ "bệnh yết hầu" ngày nay thường được sử dụng để chỉ một bệnh do virus không liên quan với bệnh bạch hầu cũng có các triệu chứng tương tự nhưng nhẹ hơn.

Lây truyền

Bạch hầu lây truyền từ người sang người thường xảy ra thông qua không khí khi một bệnh nhân ho hoặc hắt xì. Hít phải các hạt do người bệnh phóng thích ra ngoài dẫn đến nhiễm trùng. Tiếp xúc với bất kỳ vết loét trên da nào cũng có thể làm lây bệnh bạch hầu, nhưng thường ít xảy ra. Nhiễm bệnh gián tiếp cũng có thể xảy ra, khi một bệnh nhân chạm vào một vật hoặc bề mặt, có thể để lại vi khuẩn vẫn hoạt động. Ngoài ra, một số bằng chứng cho thấy động vật cũng có khả năng lây bệnh bạch hầu, nhưng chưa được khẳng định. Corynebacterium ulcerans được phát hiện trên một số động vật, do đó có khả năng lây truyền từ động vật.

Bệnh sinh

Vi khuẩn C. diphtheriae chỉ sản sinh độc tố bạch hầu khi bị nhiễm một thể thực khuẩn tích hợp những yếu tố truyền mã hóa độc tố.

Độc tố bạch hầu là một protein đơn, khối lượng phân tử 60-kDa, gồm hai chuỗi peptide, đoạn A và đoạn B được nối với nhau bởi liên kết disulfua. Đoạn B là một tiểu đơn vị nhận biết để đưa độc tố vào tế bào chủ bằng cách liên kết với domain giống-EGF của yếu tố tăng trưởng giống EGF gắn với heparin (HB-EGF) trên bề mặt tế bào. Nó phát tín hiệu cho tế bào đưa độc tố vào trong một endosome nhờ sự nhập bào thông qua thụ thể trung gian. Trong endosome, độc tố được một protease giống-trypsin cắt thành 2 đoạn A và B riêng lẻ. Tính axít của endosome làm cho đoạn B tạo thành những lỗ trên màng của endosome, do đó xúc tác cho sự giải phóng đoạn A vào tế bào chất của tế bào.

Đoạn A ức chế sự tổng hợp protein mới trong tế bào bị nhiễm bằng cách xúc tác vào ADP-ribosylation của yếu tố kéo dài EF-2—một protein rất cần thiết trong bước phiên dịch của quá trình tổng hợp protein.

ADP-ribosylation của EF-2 được đảo ngược bằng nicotinamide liều cao (một dạng vitamin B3), do đây là một trong những thành phẩm của phản ứng, và một lượng lớn có thể đảo chiều phản ứng.

Chẩn đoán

Định nghĩa ca lâm sàng hiện tại của bệnh bạch hầu được dùng ở Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh (Hoa Kỳ) dựa trên cả tiêu chí phòng thí nghiệm lẫn lâm sàng.

Tiêu chí phòng thí nghiệm

  • Phân lập C. diphtheriae từ phương pháp nhuộm Gram hoặc cấy trùng cổ họng từ một mẫu bệnh phẩm, Vắc-xin bạch hầu thường được kết hợp ít nhất là với vắc-xin uốn ván (Td) và cũng thường với vắc-xin ho gà (DTP, DTaP, TdaP, Tdap).

Điều trị

Bệnh có thể được kiểm soát, nhưng trong những trường hợp nặng, các hạch bạch huyết ở cổ có thể sưng, thở và nuốt khó. Bệnh nhân trong trường hợp này nên được chăm sóc y tế ngay lập tức, vì tắt nghẽn ở cổ họng có thể cần phải được đặt nội khí quản hoặc phẫu thuật mở khí quản. Loạn nhịp tim có thể xuất hiện ở giai đoạn đầu của bệnh hoặc vài tuần sau, và có thể gây suy tim. Bạch hầu cũng có thể gây liệt ở mắt, cổ, họng, hoặc cơ hô hấp. Bệnh nhân bị nặng được đưa vào phòng chăm sóc đặc biệt của bệnh viện và được tiêm kháng độc tố bạch hầu (chứa kháng thể được phân lập từ huyết thanh của những con ngựa được tiêm độc tố bạch hầu).

Kháng sinh chưa được chứng minh là có ảnh hưởng đến việc chữa trị nhiễm trùng cục bộ ở những bệnh nhân bạch hầu được chữa bằng kháng độc tố. Kháng sinh được dùng cho bệnh nhân hoặc người mang mầm bệnh để tiêu diệt C. diphtheriae và phòng ngừa sự lây truyền. Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh (Hoa Kỳ) khuyến nghị:

  • Metronidazole
  • Erythromycin (uống hoặc tiêm) trong 14 ngày (40 mg/kg mỗi ngày với liều tối đa 2 g/d), hoặc
  • Procaine penicillin G tiêm bắp trong 14 ngày (300,000 U/d cho bệnh nhân có cân nặng <10 kg và 600,000 U/d có cân nặng >10 kg); bệnh nhân bị dị ứng với penicillin G hoặc erythromycin có thể thay bằng rifampin hay clindamycin.

Trong những trường hợp mà tiến triển của bệnh vượt khỏi phạm vi nhiễm trùng ở họng, thì độc tố bạch hầu theo máu phát tán và có thể dẫn đến các biến chứng có khả năng đe dọa đến tính mạng như ảnh hưởng đến các cơ quan, chẳng hạn như tim và thận. Tổn thương tim do độc tố gây nên có thể ảnh hưởng đến khả năng bơm máu hoặc chức năng lọc của thận. Nó cũng có thể gây nên tổn thương thần kinh dẫn đến liệt. Khoảng 40% đến 50% những người không được điều trị có thể chết.

Dịch tễ

upright=1.3|thumb|[[Số năm sống được điều chỉnh theo mức độ bệnh tật của bạch hầu trên 100,000 dân vào năm 2004

]] upright=1.3|thumb|Số trường hợp mắc bệnh bạch hầu được [[Tổ chức Y tế Thế giới báo cáo từ năm 1997 đến 2006:

]]

Khoảng từ 5% đến 10% số ca bạch hầu bị tử vong. Ở trẻ em dưới năm tuổi và người lớn trên 40 tuổi, tỉ lệ tử vong lên tới 20%.

Sau khi Liên Xô cũ tan rã vào đầu thập niên 1990, tỉ lệ tiêm chủng ở các quốc gia thành viên cũ giảm đến mức quá thấp nên đã làm bùng phát bệnh bạch hầu. Trong năm 1991, 2,000 ca bạch hầu đã xảy ra ở Liên Xô cũ. Từ năm 1991 đến 1998 có tới 200,000 ca ở Cộng đồng các Quốc gia Độc lập đã được báo cáo, với 5,000 trường hợp tử vong.

Năm 1735, một đại dịch bạch hầu quét qua New England.

Trước năm 1826, bạch hầu được gọi bằng nhiều tên khác nhau trên thế giới. Ở Anh, nó gọi là viêm họng Boulogne, do nó lây từ Pháp. Năm 1826, Pierre Bretonneau đặt tên bệnh là diphthérite (từ tiếng Hy Lạp diphthera "miếng da") mô tả giả mạc trong họng.

Năm 1856, Victor Fourgeaud mô tả một đại dịch bạch hầu ở California.

Năm 1878, con gái của Nữ vương Victoria của Anh, Vương nữ Alice và gia đình của bà bị nhiễm bạch hầu, làm hai người chết là Đại Công nữ Marie xứ Hessen và Rhine và cả Vương nữ Alice.

Năm 1883, Edwin Klebs xác định được vi khuẩn gây bệnh bạch hầu và đặt tên là vi khuẩn Klebs-Loeffler. Hình que của vi khuẩn này giúp cho Edwin phân biệt nó với vi khuẩn khác. Qua một khoảng thời gian, nó được gọi là Microsporon diphtheriticum, Bacillus diphtheriae, và Mycobacterium diphtheriae. Danh pháp hiện tại là Corynebacterium diphtheriae.

Friedrich Loeffler là người đầu tiên nuôi cấy C. diphtheriae vào năm 1884. Ông đã sử dụng nguyên tắc Koch để chứng minh mối liên hệ giữa C. diphtheriae và bệnh bạch hầu. Ông cũng chỉ ra rằng trực khuẩn sản sinh ra ngoại độc tố.

Joseph P. O'Dwyer giới thiệu ống O'Dwyer để đặt nội khí quản cho những bệnh nhân bị nghẽn thanh quản vào năm 1885. Nó đã sớm thay thế phẫu thuật mở khí quản như là phương pháp đặt ống khẩn cấp ở bệnh nhân bạch hầu.

Năm 1888, Emile Roux và Alexandre Yersin chỉ ra rằng một chất do C. diphtheriae sản xuất gây ra những triệu chứng của bạch hầu ở động vật.

upright=1.3|thumb|left|Tiêm chủng bạch hầu ở Luân Đôn, 1941 Năm 1890, Shibasaburo Kitasato và Emil von Behring tiêm độc tố bạch hầu đã được xử lý nhiệt cho những con chuột lang nhà. Họ cũng tiêm cho dê và ngựa và cho thấy rằng một "kháng độc tố" được tạo từ huyết thanh của những động vật được tiêm chủng có thể chữa được bệnh cho những động vật không được tiêm phòng. Behring đã sử dụng kháng độc tố này (now known to consist of antibodies that neutralize the toxin produced by C. diphtheriae) cho những thử nghiệm ở người vào năm 1891, nhưng thất bại. Điều trị thành công cho người bằng kháng độc tố chiết xuất từ ngựa bắt đầu vào năm 1894, sau khi việc sản xuất và định lượng kháng độc tố đã được tối ưu hóa. Von Behring đoạt giải Nobel ở lĩnh vực y học vào năm 1901 cho công trình của ông về bệnh bạch hầu.

Năm 1895, Công ty H. K. Mulford ở Philadelphia bắt đầu sản xuất và thử nghiệm kháng độc tố bạch hầu ở Hoa Kỳ.

Năm 1901, 10 trong số 11 đứa trẻ ở St. Louis chết do tiêm kháng độc tố bạch hầu bị nhiễm khuẩn. Con ngựa được chiết xuất kháng độc tố đã chết vì uốn ván. Sự cố này kèm theo dịch uốn ván ở Camden, New Jersey, đóng một phần quan trọng trong việc khởi xướng quy định liên bang về các sản phẩm sinh học.

Năm 1905, Franklin Royer, từ Bệnh viện thành phố Philadelphia, đã xuất bản một bài báo kêu gọi điều trị kịp thời bệnh bạch hầu và tiêm đủ liều thuốc chống độc. Năm 1906, Clemens Pirquet và Béla Schick đã mô tả bệnh huyết thanh ở những đứa trẻ được tiêm một lượng lớn kháng độc tố có nguồn gốc từ ngựa.

Giữa năm 1910 và 1911, Béla Schick phát triển phương pháp xét nghiệm Schick để phát hiện khả năng miễn dịch bạch hầu từ trước ở một người bị phơi nhiễm. Chỉ những người không bị phơi nhiễm bạch hầu mới cần được tiêm phòng. Một chiến dịch lớn kéo dài năm năm do tiến sĩ Schick thực hiện. Là một phần của chiến dịch, 85 triệu tác phẩm văn chương đã được Công ty Bảo hiểm Nhân thọ Metropolitan phân phối với lời kêu gọi các bậc cha mẹ hãy "Cứu con bạn khỏi bạch hầu." Một vắc xin đã được phát triển trong thập niên kế tiếp, và số tử vong bắt đầu giảm đáng kể vào năm 1924.

Năm 1919, ở Dallas, Texas, 10 trẻ đã mất mạng và 60 trẻ khác bị bệnh nghiêm trọng do kháng độc tố bị nhiễm độc mà vẫn vượt qua được kiểm định của Sở Y tế bang New York. Công ty Mulford ở Philadelphia (nhà sản xuất) đã bồi thường thiệt hại cho các nạn nhân.

Vào thập niên 1920, mỗi năm có khoảng 100,000 đến 200,000 ca bạch hầu và 13,000 đến 15,000 trường hợp tử vong ở Hoa Kỳ.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Bệnh bạch hầu** là một nhiễm trùng gây ra bởi vi khuẩn _Corynebacterium diphtheriae_. Nó cũng có thể lây truyền qua các vật mang mầm bệnh. Vắc-xin bạch hầu có hiệu quả trong việc phòng
**Vắc-xin bạch hầu** là một loại vắc-xin chống lại _Corynebacterium diphtheriae_, vi khuẩn gây bệnh bạch hầu. Việc sử dụng nó đã dẫn đến việc giảm hơn 90% số ca bạch hầu trên toàn cầu
Bài viết giới thiệu về bệnh bạch hầu trong Đông y, nguyên nhân, cơ chế bệnh sinh và các giai đoạn phát triển của bệnh. Đặc biệt, bài viết cung cấp các phương pháp điều
**Bạch Khởi** (chữ Hán: 白起; 332 TCN – 257 TCN) là tướng lĩnh quân sự Trung Quốc cổ đại, làm việc cho nước Tần thời Chiến Quốc. Bạch Khởi được xem là một trong 4
**Hệ bạch huyết** là một phần của hệ miễn dịch của động vật có xương sống chống lại mầm bệnh, các dị vật và các tế bào biến dạng (ung thư). Ngoài nhiệm vụ bảo
**Lý Bạch** (chữ Hán: 李白; 701 - 762), tự **Thái Bạch** (太白), hiệu **Thanh Liên cư sĩ** (青蓮居士), là một trong những nhà thơ theo chủ nghĩa lãng mạn nổi tiếng nhất thời Thịnh Đường
**Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝和睿皇后, ; 20 tháng 11, năm 1776 - 23 tháng 1, năm 1850), còn được biết đến dưới tên gọi **Cung Từ Hoàng thái hậu** (恭慈皇太后), là Hoàng
**Thỏa thuận Paris về khí hậu** là một điều ước quốc tế về biến đổi khí hậu được ký kết vào năm 2016, quy định về việc giảm thiểu biến đổi khí hậu, thích ứng
**Bạch tuộc** là một loại động vật không xương sống với thân ngắn, mềm, hình ôvan (oval), thuộc bộ **Octopoda** sống dưới đáy biển. Có khoảng 299 đến 300 loài bạch tuộc trên Trái Đất,
**_Bạch xà truyện_** (白蛇傳), còn có tên là **_Hứa Tiên và Bạch Nương Tử_** (許仙與白娘子) là một trong bốn truyền thuyết dân gian lớn của Trung Quốc. Câu chuyện ra đời vào thời Nam Tống
**Hiếu Thục Duệ Hoàng hậu** (, chữ Hán: 孝淑睿皇后; 2 tháng 10, năm 1760 - 5 tháng 3, năm 1797), là nguyên phối và Hoàng hậu đầu tiên của Thanh Nhân Tông Gia Khánh Đế,
**Bạch** là một họ của người thuộc vùng Văn hóa Đông Á, gồm Việt Nam, Triều Tiên (Hangul: 백, Romaja quốc ngữ: Baek hay Paek) và Trung Quốc (chữ Hán: 白, Bính âm: Bai). Tại
**Hiếu Triết Nghị Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝哲毅皇后; ; 25 tháng 7, năm 1854 - 27 tháng 3, năm 1875), là vị Hoàng hậu duy nhất của Thanh Mục Tông Đồng Trị Hoàng đế. Bà
**Hiếu Thánh Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝聖憲皇后, tiếng Mãn: ; tiếng Mãn Châu: hiyoošungga enduringge temgetulehe hūwangheo; 1 tháng 1 năm 1693 - 2 tháng 3 năm 1777), thường gọi là **Sùng Khánh Hoàng
**hương Bạch Sa** () là một hương (xã) thuộc huyện Bành Hồ, Đài Loan. Đảo Bạch Sa nằm ở phía bắc của đảo chính Bành Hồ, được nối với đảo Tây qua cầu vượt biển
**Khởi nghĩa Bạch Liên giáo ở (các tỉnh) Xuyên, Sở** (chữ Hán: 川楚白莲教起义, Xuyên Sở Bạch Liên giáo khởi nghĩa), thường gọi là **Khởi nghĩa Bạch Liên giáo**, nhà Thanh gọi là **loạn Xuyên Sở
**Yết hầu** hay **viêm tắc thanh quả**, **_viêm thanh khí phế quả_** ("_laryngotracheobronchitis_") là căn bệnh nhiễm trùng đường hô hấp thường do virus. Triệu chứng nặng nhẹ không nhất định nhưng thường tăng lên
**Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam** (tiếng Anh: **Miss Cosmo Vietnam**) là cuộc thi sắc đẹp cấp quốc gia của Việt Nam được tổ chức hằng năm bắt đầu từ 2022, trước đó cuộc thi
**Minh Đức Mã hoàng hậu** (chữ Hán: 明德馬皇后; ? - 9 tháng 7, 79), hay thường gọi **Minh Đức hoàng thái hậu** (明德皇太后), **Đông Hán Minh Đức Mã hoàng hậu** (東漢明德馬皇后), **Đông Hán Mã thái
**Bạch Ngân** (tiếng Trung: 白银市, bính âm: _Báiyín_; Hán-Việt: Bạch Ngân thị) là một địa cấp thị thuộc tỉnh Cam Túc, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Địa cấp thị này có diện tích 21.200 km²,
✅Tác dụng của mạch môn: Theo Đông y, Mạch môn có vị ngọt, hơi đắng, tính mát. Quy kinh tâm, phế, vị. Có công năng dưỡng âm, sinh tân, nhuận phế, thanh tâm. Dùng khi
✅Tác dụng của mạch môn: Theo Đông y, Mạch môn có vị ngọt, hơi đắng, tính mát. Quy kinh tâm, phế, vị. Có công năng dưỡng âm, sinh tân, nhuận phế, thanh tâm. Dùng khi
**Nguyễn Thị Loan** (sinh ngày 24 tháng 7 năm 1990 tại xã Bạch Bằng (Hồng Bạch, huyện Đông Hưng, Thái Bình, Việt Nam) là một người mẫu, diễn viên, á hậu, người Việt Nam. Cô
**Bạch Bách Hà** (tiếng Trung: 白百何; sinh ngày 01 tháng 03 năm 1984 tại Thanh Đảo) tên thật **Bạch Tuyết**, là một nữ diễn viên Trung Quốc. ## Tiểu sử Năm 1990, Bạch Bách Hà
**Phong Trào Bạch Vệ** (tiếng Nga: Бѣлое движение, _chuyển tự_: Bѣloye dvizheniye) là một trong những lực lượng chính trong Nội chiến Nga từ năm 1917 - 1922. Là lực lượng gồm cả chính trị
nhỏ|phải|Bạch tuộc nướng **Thịt bạch tuộc** còn gọi là **Chương ngư** là phần thịt của con bạch tuộc. Nhiều nơi trên thế giới bắt bạch tuộc để ăn, tua và các bộ phận khác được
**Bạch tuộc Paul** (2008-2010) là một con bạch tuộc nổi tiếng toàn thế giới vì dự đoán chính xác kết quả thi đấu quốc tế của đội tuyển bóng đá quốc gia Đức, đặc biệt
**Hậu Tấn Xuất Đế** hay Thiếu Đế **Thạch Trọng Quý** (914-974), là vị vua thứ hai của nhà Hậu Tấn. Ông trị vì từ năm 942 tới năm 946. ## Sơ kỳ Thạch Trọng Quý
**Bạch Lộc** (tiếng Trung: 白鹿; Bính âm: _Bái lù),_ tên khai sinh là **Bạch Mộng Nghiên** (tiếng Trung: 白梦妍, sinh ngày 23 tháng 9 năm 1994), là một nữ diễn viên, ca sĩ kiêm người
**Bạch Long Vĩ** (chữ Hánː 白龍尾, nghĩa: đuôi rồng trắng; tên cũ: Vô Thủy, Dạ Oanh) là một đảo, đồng thời là một đặc khu thuộc thành phố Hải Phòng, Việt Nam. Đây là đảo
nhỏ|_Tương Bạch kỳ_|thế=**Tương Bạch kỳ** (, tiếng Trung: 鑲白旗; tiếng Anh: _Bordered White Banner_) là một kỳ thuộc chế độ Bát Kỳ của Thanh triều và được quản lý bởi _Kỳ chủ_, lấy cờ sắc
**Họ Bạch hoa đan** hay **họ Đuôi công** (danh pháp khoa học: **Plumbaginaceae**) là một họ trong thực vật có hoa, với sự phân bổ rộng khắp thế giới. Phần lớn các loài trong họ
**Bạch tuộc thông thường** (danh pháp hai phần: _Octopus vulgaris_) là một loài bạch tuộc, đây là loài bạch tuộc được nghiên cứu nhiều nhất. Loài này có phạm vi phân bố ở Đông Đại
**Bộ Bạch quả** (danh pháp khoa học: **_Ginkgoales_**) là bộ thực vật hạt trần nằm trong lớp Bạch quả (_Ginkgoopsida_). Bộ này đã xuất hiện trong kỷ Jura (199,6 - 145,5 Ma) của đại Trung
**Bạch đàn trắng** (**_Eucalyptus camaldulensis_**) là loài cây thuộc chi Bạch đàn _Eucalyptus_. Đây là một trong số khoảng 800 loài thuộc chi này. Bạch đàn trắng là loài bản địa của Úc, hiện được
**Hiếu Khâm Hiển Hoàng hậu**; (chữ Hán: 孝欽顯皇后; ; ; trước đây La Mã hóa là **Từ Hi Thái hậu T'zu-hsi**; 29 tháng 11 năm 1835 – 15 tháng 11 năm 1908), thường được gọi
**Hiếu Trinh Hiển Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝貞顯皇后; ; 12 tháng 8, năm 1837 – 8 tháng 4, năm 1881), được biết đến như **Từ An Hoàng thái hậu** (慈安皇太后) hoặc **Đông Thái hậu** (東太后),
**Bạch đàn**, **Khuynh diệp** là chi thực vật có hoa **_Eucalyptus_** trong họ Đào kim nương (Myrtaceae). Các thành viên của chi này có xuất xứ từ Úc. Có hơn 700 loài bạch đàn, hầu
**Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 皇太后; Kana: こうたいごうKōtaigō; Hangul: 황태후Hwang Tae Hu; tiếng Anh: _Dowager Empress_, _Empress Dowager_ hay _Empress Mother_), thường được gọi tắt là **Thái hậu** (太后), là một tước vị được quy
**Hậu chấn tâm lý** hay **rối loạn căng thẳng sau sang chấn/chấn thương** (tiếng Anh: **_p**ost-**t**raumatic **s**tress **d**isorder_ – PTSD) là một rối loạn tâm thần có thể phát triển sau khi một người tiếp
**Họ Bạch quế bì** (danh pháp khoa học: **_Canellaceae_**) là một họ trong thực vật có hoa. Họ này có 16 loài phân bổ trong 6 chi. Các loài trong họ là các thực vật
thumb|Mô tả tình dục hậu môn **Tình dục hậu môn,** (tiếng Anh: _anal sex_) hay còn gọi là **giao hợp hậu môn** (_anal intercourse_), **giang giao** hoặc **kê gian**, thường chỉ hành vi tình dục
**Đại Thắng Minh Hoàng hậu** (chữ Hán: 大勝明皇后; 952 - 1000), dã sử xưng gọi **Dương Vân Nga** (楊雲娥), là Hoàng hậu của 2 vị Hoàng đế thời kỳ đầu lập quốc trong Lịch sử
**Hòa Hi Đặng Hoàng hậu** (chữ Hán: 和熹鄧皇后; 81 - 121), hay còn gọi **Hòa Hi Đặng thái hậu** (和熹鄧太后), **Đông Hán Đặng thái hậu** (東漢鄧太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hòa Đế
**Hiếu Trang Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊文皇后; ; 28 tháng 3, 1613 - 27 tháng 1, 1688), thường được gọi là **Hiếu Trang Thái hậu** (孝莊太后), **Chiêu Thánh Thái hậu** (昭聖太后) hoặc **Hiếu Trang
**Văn Minh Phùng Hoàng hậu** (chữ Hán: 文明馮皇后, 441 - 17 tháng 10, 490), thường gọi là **Văn Minh Thái hậu** (文明太后) hoặc **Bắc Ngụy Phùng Thái hậu** (北魏冯太后), là Hoàng hậu của Bắc Ngụy
**Hiếu Từ Cao Hoàng hậu Mã thị** (chữ Hán: 孝慈高皇后馬氏, 18 tháng 7 năm 1332 – 23 tháng 9 năm 1382), thường gọi **Minh Thái Tổ Mã Hoàng hậu** (明太祖馬皇后) để phân biệt với vị
[[Tập tin:Koppen World Map Dfc Dwc Dsc Dfd Dwd Dsd.png|thumb|right|upright=1.8|_Khí hậu cận Bắc cực_ trên thế giới ]] **Khí hậu cận Bắc Cực** (còn gọi là **khí hậu cận cực**, **khí hậu cận alpine** hoặc
**Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭仁皇后, , 1653 - 18 tháng 3 năm 1678), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế. Với tư cách là con gái của
**Hiến Thánh Từ Liệt Hoàng hậu** (chữ Hán: 憲聖慈烈皇后, 18 tháng 9, 1115 - 19 tháng 12, 1197), còn gọi là **Thọ Thánh Hoàng thái hậu** (壽聖皇太后), là Hoàng hậu thứ hai của Tống Cao