✨Paul von Hindenburg

Paul von Hindenburg

Paul Ludwig Hans Anton von Beneckendorff und von Hindenburg (), còn được biết đến ngắn gọn là Paul von Hindenburg (, tên phiên âm là Hin-đen-bua (2 tháng 10 năm 1847 - 2 tháng 8 năm 1934) là một Thống chế và chính khách người Đức. Tuy có những lời chỉ trích ông, trong ký ức của hàng triệu người Đức trước và sau cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Paul von Hindenburg là người anh hùng của trận Tannenberg, là hiện thân của những phẩm chất cao đẹp của dân tộc Phổ xưa, là kỷ luật, đạo đức, tư cách đáng trọng và ngăn nắp.

Hindenburg có một thời gian dài trong binh nghiệp trong quân đội Phổ và về hưu năm 1911. Tuy vậy, ông được gọi tái ngũ trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất và được công chúng biết đến như người chiến thắng trong trận đánh tại Tannenberg năm 1914, ở tuổi 66. Sau đó, ông được cử vào chức vụ Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Đức và có được sự hâm mộ của quân chúng cũng như sự sủng ái của Hoàng đế. Hindenburg về hưu một lần nữa vào 1919, nhưng trở lại chính trường một lần nữa khi được bầu làm Tổng thống Đức vào năm 1925.

Trong nhiệm kỳ thứ hai của mình, ông không còn sự lựa chọn nào khi buộc phải chỉ định Hitler vào chức vụ Thủ tướng vào tháng Giêng 1933. Sau khi Hindenburg qua đời vào năm sau, Hitler tuyên bố chức vụ tổng thống bị bỏ trống, tự xưng mình là "Führer" và biến đổi nước Đức thành quốc gia phát xít.

Thời niên thiếu

Hindenburg đã được sinh ra tại vùng Posen, Vương quốc Phổ (nay thuộc Poznan, Ba Lan), con trai của một quý tộc Phổ là Robert von Beneckendorff und von Hindenburg (1816-1902) và vợ là bà Luise Schwickart (1825-1893), một người thuộc tầng lớp bình dân. Ông là anh trai lớn với các em Otto (trai, sinh 24 tháng 8 năm 1849), Ida (gái, sinh 19 tháng 12 năm 1851), và Bernhard (trai, sinh 17 tháng 1, 1859). Gia đình mong muốn ông trở thành một Sĩ quan Quân đội Phổ, và ông cũng sẵn lòng. Gia đình Hindenburg có một vị tổ là Đoàn trưởng Otto Frederick von Hindenburg từng bị thọt khi chiến đấu trong trận đánh tại Torgau (1760), và được vua Friedrich II Đại Đế ban cho một điền trang Neudeck. Thiếu thời, cậu bé Hindenburg thường lắng nghe chuyện về những chiến công anh hùng do một người làm vườn kể - ông này đã già và xưa kia ông từng là người đánh trống trong Quân đội của vua Friedrich II Đại Đế.

Thời binh nghiệp trong quân đội Đức

thumb|[[Xu bạc: 5 Reichsmark với mặt trước là chân dung của Paul von Hindenburg - 1937 F]] nhỏ|phải|nhà số 6 phố Podgórna, Poznan, Ba Lan; nơi von Hindenburg từng sinh ra và sống ở đây Sau thời niên thiếu của Hindenburg trải qua ở Wahlstatt (ngày nay là Legnickie pole) và trường thiếu sinh quân Berlin, ông tham gia trong Chiến tranh Áo - Phổ (1866) và Chiến tranh Pháp - Phổ (1870 - 1871). Với sự nổi bật của mình, Hindenburg đã được chọn vào nhóm vệ binh danh dự hộ vệ Hoàng đế Đức lên ngôi tại Cung điện Versailles vào ngày 18 tháng 1, 1871. nhỏ|trái|Oskar von Hindenburg Hindenburg vẫn tiếp tục tham gia quân đội và thăng tiến dần trong con đường binh nghiệp của mình. Ngày 22 tháng 3 năm 1897, ông được thăng Thiếu tướng; ngày 9 tháng 7 năm 1900, được thăng Trung tướng, giữ chức Tư lệnh Sư đoàn 28, Karlsruhe. Ngày 22 tháng 6 năm 1905, ông được cử giữ chức vụ Tư lệnh Quân đoàn IV Magdeburg, với cấp bậc Thượng tướng Bộ binh (tiếng Đức: General der Infanterie).

Ông lập gia đình với một quý tộc Đức là bà Gertrud von Sperling, em gái tướng Kurt von Sperling. Hai ngưới có với nhau 2 người con gái là Irmengard Pauline (1880) và Annemaria (1891), và một con trai, Oskar von Hindenburg (1883). Khi Hoàng đế Wilhelm I qua đời vào năm 1888, Hindenburg đã đưa cậu con trai 5 tuổi của mình đến xem cố Hoàng đế nằm trong quan tài. Ông phát huy sự nghiệp quân sự cho Oskar, và gả hai cô con gái của mình cho các quý tộc Đức.

Chiến tranh thế giới thứ nhất

nhỏ|Anh chụp Hindenburg năm [[1916]] Hindenburg và Ludendorff 1917 Tuy rằng Hindenburg giải ngũ vào năm 1911, nhưng nhanh chóng được gọi tái ngũ vào năm 1914 bởi Tổng tham mưu trưởng quân đội Đức bấy giờ là Helmuth von Moltke. Ông được giao chức Tư lệnh Tập đoàn quân VIII (thay cho Max von Prittwitz) với nhiệm vụ chốt chặn các Tập đoàn quân I và II của Nga tại Đông Phổ. Trước đó, do thất bại trước Tập đoàn quân I của quân Nga tại trận Gumbinnen, người tiền nhiệm của Hindenburg là Maximilian von Prittwitz đã có kế hoạch bỏ Đông Phổ và rút về bên kia sông Vistula. Ngay khi nhận chức, Paul von Hindenburg và tham mưu trưởng của mình là Erich Ludendorff đã điều một số sư đoàn từ mặt trận phía Tây về để cứu nguy Đông Phổ. Nhờ có sự tăng viện này và quân Đức đã ngừng rút lui và chuyển sang phản công quân Nga. Kết quả cuối cùng là quân Nga đại bại trong trận Tannenberg rồi trận hồ Masurian sau đó và Đông Phổ hoàn toàn được giải phóng. Với những chiến thắng vang dội này, Hindenburg và Ludendorff trở thành biểu tượng của tài năng của dân tộc Đức. Ông trở thành một vị anh hùng dân tộc được trọng vọng. Ngày 26 tháng 8 năm 1914, Hindenburg được phong cấp bậc Đại tướng (tiếng Đức: Generaloberst).

Đầu tháng 11 năm 1914, Hindenburg được cử làm Tổng chỉ huy Mặt trận phía Đông (Ober-Ost). Cuối tháng 11, sau thắng lợi ở Lozt, Hindenburg được thăng quân hàm Thống chế. Các đơn vị thuộc quyền của ông cũng được tổ chức lại thành 3 Tập đoàn quân VIII, IX, X và một số quân đoàn độc lập.

Cả Hindenburg và Ludendorff đều cho rằng cần tăng cường lực lượng hơn nữa tại mặt trận phía đông nhằm tiêu diệt hoàn toàn quân Nga. Tuy nhiên, Tổng tham mưu trưởng Quân đội Đức là Erich von Falkenhayn lại cho rằng chỉ cần duy trì ở mức để cho quân Nga nản lòng mà rút ra khỏi cuộc đại chiến, và Quân đội Đức sẽ rảnh tay để tập trung làm "chảy máu" quân Pháp trong trận Verdun. Nhưng, đây là một sai lầm lớn của Falkenhayn, dẫn đến thất bại chiến lược của quân Đức tại Verdun và Hindenburg được cử làm Tổng tham mưu trưởng thay cho Falkenhayn vào tháng 8 năm 1916. Erich Ludendorff trở thành chủ nhiệm Tổng cục hậu cần thứ nhất của ông. Các tranh ảnh thời chiến thường cho thấy nhóm "Tam hùng" bao gồm Hoàng đế Wilhelm II cùng hai chiến binh tài năng Hindenburg và Ludendorff, làm lu mờ những bất hòa giữa họ. Tuy Hoàng đế thực chất không ưa Ludendorff và cũng chẳng thích Hindenburg, Hoàng đế lại không làm được nhiều điều để ngăn chặn việc hai người chiến binh này thiết lập một chế độ độc tài quân sự sau khi hai ông thành công trong việc loại trừ Thủ tướng nước Đức khi đó là Theobald von Bethmannn Hollweg ra khỏi Chính phủ Đức vào tháng 7 năm 1917.

Qua đời

Vào ngày 1 tháng 8 năm 1934, Paul von Hindenburg từ trần tại điền trang riêng của ông. Ngày hôm sau, các lực lượng vũ trang tuyên thệ trung thành với Adolf Hitler. Vào ngày 7 tháng 8, Adolf Hitler tiến hành lễ mai táng vị cố Tổng thống, tại một nơi vinh danh nằm gần chiến trường Tannenberg oanh liệt xưa kia. Đại thắng của ông tại Tannenberg cũng thường được Đức Quốc xã lấy ra tuyên truyền. Nhưng vào tháng 1 năm 1945, trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai, Hồng quân Liên Xô tiến đánh vùng Đông Phổ, thi hài ông được di dời ra khỏi đây.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Paul Ludwig Hans Anton von Beneckendorff und von Hindenburg** (), còn được biết đến ngắn gọn là **Paul von Hindenburg** (, tên phiên âm là **Hin-đen-bua** (2 tháng 10 năm 1847 - 2 tháng 8
**August von Mackensen**, tên khai sinh là **Anton Ludwig Friedrich August Mackensen** (6 tháng 12 năm 1849 – 8 tháng 11 năm 1945) là một Thống chế quân đội Đức thời kỳ đế quốc. Trong
**Nội các Von Schleicher**, đứng đầu bởi Thủ tướng Kurt von Schleicher, là chính phủ thứ 20 của Cộng hòa Weimar. Schleicher lên nắm quyền vào ngày 3 tháng 12 năm 1932 sau khi gây
**SMS _Hindenburg**_ là một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Đế quốc Đức và là chiếc thứ ba thuộc lớp _Derfflinger_. Tên của nó được đặt nhằm vinh danh Thống chế Paul von Hindenburg, người
**Erich von Manstein** tên đầy đủ là **Fritz Erich Georg Eduard von Lewinski** (24 tháng 11 năm 1887 – 10 tháng 7 năm 1973) là một chỉ huy cấp cao của quân đội Đức thời
**Max(imilian) Wilhelm Gustav Moritz von Prittwitz und Gaffron** (27 tháng 11 năm 1848 – 29 tháng 3 năm 1917) là một tướng lĩnh quân đội Đế quốc Đức. Ông đã chiến đấu trong cuộc Chiến
**LZ 129 Hindenburg** (_Luftschiff Zeppelin #129_; Đăng ký: **D-LZ 129**) là một chiếc khinh khí cầu cứng chuyên chở hành khách thương mại của Đức, là tàu dẫn đầu của lớp Hindenburg, lớp khí cầu
**Gebhard Leberecht von** **Blücher, Thân vương xứ Wahlstatt** (; 21 tháng 12 năm 1742 – 12 tháng 9 năm 1819), là _Graf_ (Bá tước), sau này được nâng lên thành _Fürst_ (Thân vương có chủ
**Kurt Ferdinand Friedrich Hermann von Schleicher**, có thể gọi ngắn gọn là Kurt von Schleicher (ngày 7 tháng 4 năm 1882 đến ngày 30 tháng 6 năm 1934) là một vị tướng Đức và là
**Eduard Freiherr von Böhm-Ermolli** (12 tháng 2 năm 1856 - 9 tháng 12 năm 1941) là một tướng lĩnh người Áo trong Thế chiến thứ nhất, cấp bậc Thống chế quân đội Đế quốc Áo-Hung.
**Franz Joseph Hermann Michael Maria von Papen zu Köningen**, có thể gọi ngắn gọn là Franz von Papen (; sinh ngày 29 tháng 10 năm 1879 - 2 tháng 5 năm 1969) là một nhà
**Martin Wilhelm Remus von Woyrsch** (4 tháng 2 năm 1847 – 6 tháng 8 năm 1920) là một Thống chế của Phổ đã từng tham chiến trong các cuộc Chiến tranh Áo-Phổ, Chiến tranh Pháp-Đức
**Kurt von Sperling** (18 tháng 12 năm 1850 tại Köln – 31 tháng 8 năm 1914 tại Breslau, Hạ Schlesien) là một sĩ quan quân đội Đức (Thượng tướng Bộ binh à la suite của
**Henning Hermann Karl Robert von Tresckow** (; sinh ngày 10 tháng 1 năm 1901 - mất 21 tháng 7 năm 1944) là một sĩ quan Wehrmacht hàm thiếu tướng. Ông là người đã tổ chức
** Eduard Julius Ludwig von Lewinski **, có thể gọi ngắn gọn là Eduard von Lewinski (22 tháng 2 năm 1829 – 17 tháng 9 năm 1906) là một tướng lĩnh trong quân đội Phổ
nhỏ|Erich von Falkenhayn **Erich von Falkenhayn** (11 tháng 9 năm 1861 - 8 tháng 4 năm 1922) là một trong các chỉ huy quan trọng của quân đội Đức thời Chiến tranh thế giới thứ
**Max Karl Wilhelm von Gallwitz** (2 tháng 5 năm 1852 tại Breslau – 18 tháng 4 năm 1937 tại Napoli) là Thượng tướng pháo binh quân đội Đức thời kỳ Đế quốc. Sinh ra ở
**Karl Freiherr von Plettenberg** (18 tháng 12 năm 1852 tại Neuhaus – 10 tháng 2 năm 1938 tại Bückeburg) là một sĩ quan quân đội Phổ, và sau này là Thượng tướng Bộ binh trong
**Richard Karl Freiherr von Weizsäcker** (; 15 tháng 4 năm 1920 – 31 tháng 1 năm 2015) là một chính trị gia (CDU). Từ 1 tháng 7 năm 1984 tới 2 tháng 10 năm 1990,
**Armand Léon Baron von Ardenne** (26 tháng 8 năm 1848 tại Leipzig – 20 tháng 5 năm 1919 tại Groß-Lichterfelde) là một Trung tướng và nhà sử học quân sự Phổ, người gốc Bỉ. Ông
**Tổng thống Đức** (, nghĩa đen là 'tổng thống của Reich') là nguyên thủ quốc gia của Đức theo Hiến pháp Weimar từ năm 1919 đến năm 1945, bao gồm các thời kỳ của Cộng
**Adolf Hitler** (20 tháng 4 năm 188930 tháng 4 năm 1945) là một chính khách người Đức, nhà độc tài của nước Đức từ năm 1933 cho đến khi tự sát vào năm 1945. Tiến
**Hiệp định đình chiến Compiègne** (, ) được ký vào ngày 11 tháng 11 năm 1918 trong một khu rừng gần thành phố Compiègne, thuộc vùng Picardy của Pháp. Hiệp định này đánh dấu sự
**Nội các Papen**, do Franz von Papen – một nhân vật độc lập – đứng đầu, là chính phủ thứ 19 của Cộng hòa Weimar. Nội các này nhậm chức ngày 1 tháng 6 năm
**Nội các Hitler** là chính phủ của Đức Quốc xã từ 30/1/1933 đến 30/4/1945 khi Adolf Hitler được Tổng thống Paul von Hindenburg bổ nhiệm làm Thủ tướng Đế chế Đức. Với việc Hitler làm
**Paul Joseph Goebbels** hay có tên phiên âm dựa theo tiếng Đức là **Giô-xép Gơ-ben** (; (29 tháng 10 năm 1897 – 1 tháng 5 năm 1945) là một chính trị gia người Đức giữ chức
**Đức Quốc Xã**, còn gọi là **Đệ Tam Đế chế** hay **Đế chế thứ ba** () hoặc với tên chính thức là **Đế chế Đức** (), là nước Đức trong thời kỳ 1933–1945 đặt dưới
**Cộng hòa Weimar** () là tên sử gia gọi chính phủ và nhà nước Đức trong khoảng thời gian từ ngày 9 tháng 11 năm 1918 trong cuộc Cách mạng tháng 11, sau khi Chiến
**Trận Gumbinnen** là trận đánh diễn ra giữa Đế quốc Nga và Đế chế Đức trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất vào ngày 20 tháng 8 năm 1914 tại Gumbinnen, vùng Đông
**Friedrich Wilhelm Viktor Abert von Hohenzollern, Wilhelm II** của Phổ và Đức, (27 tháng 1 năm 1859 – 4 tháng 6 năm 1941) là vị Hoàng đế (_Kaiser_) cuối cùng của Đế quốc Đức, đồng
Một cuộc trưng cầu ý dân về việc hợp nhất chức vụ thủ tướng Đức và tổng thống Đức được tổ chức ở Đức Quốc Xã vào ngày 19 tháng 8 năm 1934, 17 ngày
**Chiến dịch tấn công Đông Phổ** đã diễn ra trên Mặt trận phía Đông của cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, là cuộc tiến công của quân đội Đế quốc Nga vào tỉnh Đông
**Chiến dịch tấn công Gorlice–Tarnów** là một chiến dịch quân sự lớn do khối Liên minh Trung tâm tổ chức nhằm vào quân đội Nga trên Mặt trận phía Đông của Chiến tranh thế giới
phải|Tượng Ernst Thälmann tại [[Weimar.]] **Ernst Thälmann** (tại Việt Nam còn phiên âm là **Tenlơman**) (16 tháng 4 năm 1886 – 18 tháng 8 năm 1944) là nhà lãnh đạo của Đảng Cộng sản của
[[Wilhelm II của Đức|Wilhelm II của Đế quốc Đức, Mehmed V của Đế quốc Ottoman và Franz Joseph I của Đế quốc Áo-Hung: Ba vị toàn quyền của phe Liên minh Trung tâm trong Chiến
**Heinrich Luitpold Himmler** hay có tên phiên âm dựa theo tiếng Đức là **Hen-rích Him-le** (; 7 tháng 10 năm 1900 – 23 tháng 5 năm 1945) là _Reichsführer_ (Thống chế SS) của _Schutzstaffel_ (Đội cận
**Đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa** ( - **NSDAP**), thường được gọi là **Đảng Quốc Xã** trong tiếng Việt, là đảng cầm quyền Đức trong thời kỳ Đức Quốc Xã. Lãnh
**Phổ** (tiếng Đức: Preußen; tiếng Latinh: _Borussia_, _Prutenia_; tiếng Anh: Prussia; tiếng Litva: _Prūsija_; tiếng Ba Lan: _Prusy_; tiếng Phổ cổ: _Prūsa_) là một quốc gia trong lịch sử cận đại phát sinh từ Brandenburg,
Trang đầu của Hòa ước Versailles, bản [[tiếng Anh]] thumb|thumbtime=5|_The Signing of the Peace Treaty of Versailles_ **Hòa ước Versailles** năm 1919 là hòa ước chính thức chấm dứt cuộc Chiến tranh thế giới thứ
**Mặt trận phía Đông** trong Chiến tranh thế giới thứ nhất bao gồm các chiến trường ở Đông Âu và Trung Âu giữa Liên minh Trung tâm với Nga và Romania thuộc Phe Hiệp ước.
**Erich Friedrich Wilhelm Ludendorff** (9 tháng 4 năm 1865 – 20 tháng 12 năm 1937) là một tướng lĩnh và chiến lược gia quân sự quan trọng của Đế quốc Đức. Ông được xem là
:_Lục quân Đế quốc Đức được đổi hướng đến đây. Để tìm hiểu các nghĩa khác, xem bài Lục quân Đế quốc La Mã Thần thánh và Lục quân Áo và Hungary trong Chiến tranh
**Trận hồ Masuren lần thứ nhất** là một trận đánh tiêu biểu trên Mặt trận phía Đông của cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, diễn ra từ ngày 9 cho đến ngày 14 tháng
**Trận hồ Masuren lần thứ hai**, còn gọi là **Trận chiến Mùa đông Masuren**, diễn ra từ ngày 7 đến ngày 22 tháng 2 năm 1915 trên Mặt trận phía Đông thời Chiến tranh thế
**Trận Łódź** là trận đánh giữa tập đoàn quân số 9 Đức do thượng tướng kỵ binh August von Mackensen chỉ huy với phương diện quân Tây Bắc của Nga do tướng Nikolai V. Ruzsky
**Cụm tập đoàn quân** (tiếng Đức: _Heeresgruppe_) là tổ chức tác chiến cấp chiến lược cao nhất của Quân đội Đức Quốc xã, trên cấp Tập đoàn quân. Cũng giống như biên chế phương diện
**Tập đoàn quân số 8** (Tiếng Đức: **_8. Armee / Armeeoberkommando 8 / A.O.K. 8_**) là một đơn vị cấp Tập đoàn quân của Đức trong Thế chiến thứ nhất. Nó được triển khai ở
**_Phía Tây không có gì lạ_** (tiếng Anh: _All Quiet on the Western Front_, tiếng Đức: _Im Westen nichts Neues_) là một bộ phim điện ảnh thuộc thể loại sử thi – chiến tranh –
**Chiến tranh thế giới thứ nhất**, còn được gọi là **Đại chiến thế giới lần thứ nhất**, **Đệ nhất Thế chiến** hay **Thế chiến I**, là một cuộc chiến tranh thế giới bắt nguồn tại
**Cuộc Tổng tấn công Mùa xuân 1918**, còn gọi là **Các cuộc Tổng tấn công Ludendorff**, **Trận chiến của Hoàng đế** (_Kaiserschlacht_) hay **Chiến dịch Ludendorff** là tên chiến dịch Tổng tấn công lớn của