✨Max von Gallwitz

Max von Gallwitz

Max Karl Wilhelm von Gallwitz (2 tháng 5 năm 1852 tại Breslau – 18 tháng 4 năm 1937 tại Napoli) là Thượng tướng pháo binh quân đội Đức thời kỳ Đế quốc. Sinh ra ở tỉnh Schlesien (Phổ, Gallwitz đã gia nhập lục quân Phổ vào năm 1870 và tham gia Chiến tranh Pháp-Đức. Sau khi chiến tranh kết thúc, Gallwitz tiếp tục phục vụ quân đội Phổ (giờ là một thành phần cấu thành quân đội Đế quốc Đức), nhưng triển vọng thăng tiến trên con đường binh nghiệp của Gallwitz không được sáng sủa. Không những là một bình dân trong đội ngũ sĩ quan Đức được chi phối bởi những người thuộc tầng lớp quý tộc phong kiến, ông còn là một tín đồ Công giáo trong khi đa số quân nhân Phổ là người theo Kháng Cách và có thành kiến nặng nề với đức tin của Gallwitz. Tuy nhiên, năng lực của Gallwitz đã gây ấn tượng cho các cấp trên và giúp ông được thăng tiến đều đặn qua các cấp bậc trong lục quân Đức. Gallwitz được phong quân hàm Thượng tướng pháo binh năm 1911.. Cuối cuộc chiến, Gallwitz làm Tư lệnh Cụm Tập đoàn quân Gallwitz đánh nhau với quân đồng minh Mỹ-Pháp tại Saint-Mihiel và Meuse-Argonne; mặc dù gây cho đối phương nhiều khó khăn, tổn thất, Cụm Tập đoàn quân Gallwitz đã bị đánh bật khỏi Pháp vào tháng 11 năm 1918. Sau khi chiến tranh chấm dứt, ông tham gia chính trị với cương vị là đại biểu Quốc hội của Đảng Dân tộc Nhân dân Đức.

Tiểu sử

Gallwitz sinh ngày 2 tháng 5 năm 1852 ở tỉnh Hạ Schlesien của Phổ. Khác với nhiều tướng lĩnh cấp cao của Đức, ông là con trai của một nhân viên thu thuế tại Breslau. Sau khi tốt nghiệp phổ thông, ông đã gia nhập Trung đoàn Pháo dã chiến "Thống chế Bá tước Waldersee" (Schleswig) số 9 với vai trò là lính tình nguyện vào ngày 13 tháng 8 năm 1870 và tham gia chiến đấu trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871). Ngày 9 tháng 3 năm 1871, ông được phong cấp bậc Chuẩn úy (Portepée-Fähnrich). Vào ngày 9 tháng 3 năm 1872, ông được lên quân hàm Thiếu úy. Đến ngày 1 tháng 10 năm 1877, ông theo học một khóa đào tạo kéo dài 3 năm của Học viện Quân sự Phổ. Vào ngày 2 tháng 7 năm 1880, ông trở lại trung đoàn của mình ở Rendsburg, vào ngày 3 tháng 3 năm 1881, ông được thăng cấp Trung úy. Vào ngày 11 tháng 7 năm 1882, ông được điều đến Kassel làm sĩ quan phụ tá của Lữ đoàn Pháo dã chiến số 11, trước khi gia nhập Bộ Tổng tham mưu tại kinh đô Berlin ngày 21 tháng 4 năm 1883. Đến ngày 15 tháng 10 năm 1885, ông được lên quân hàm Đại úy.

Kể từ năm 1886, ông hoạt trong một số bộ tham mưu quân đội, Bộ Chiến tranh và giữ một số chức vụ Tư lệnh. Vào ngày 18 tháng 10 năm 1902, trên cương vị là Lữ trưởng Lữ đoàn Pháo dã chiến số 29 ở Karlsruhe, ông được phong cấp Thiếu tướng. Vào ngày 27 tháng 1 năm 1903, ông được lãnh chức Trưởng khoa Quản trị Quân sự của Bộ Chiến tranh ở Berlin, và giữ chức vụ này cho đến ngày 3 tháng 10 năm 1906, khi ông được ủy nhiệm chức Sư trưởng Sư đoàn Bộ binh số 15 ở thành phố Köln. Ngày 16 tháng 10 năm đó, ông được thăng quân hàm Trung tướng. Vào ngày 3 tháng 4 năm 1911, ông nhậm chức Tướng thanh tra Pháo dã chiến tại Berlin, trước khi được phong cấp Thượng tướng pháo binh vào ngày 4 tháng 4. Đến ngày 16 tháng 6 năm 1913, ông được Đức hoàng Wilhelm II liệt vào hàng khanh tướng Phổ.

Chiến tranh thế giới thứ nhất

thumb|Max von Gallwitz, 1915 Khi cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, ông được lãnh chức Tướng tư lệnh của Quân đoàn Trừ bị Cận vệ, một phần thuộc biên chế của Tập đoàn quân số 2, vào ngày 2 tháng 8 năm 1914. ông được tặng thưởng Huân chương Quân công, phần thưởng quân sự cao quý nhất của Đức, do tài dụng binh xuất chúng và kế hoạch quân sự bài bản của mình trong chiến dịch tấn công thắng lợi ở Galicia, đồng thời là do công tích đánh chiếm pháo đài Pultusk và vị trí phòng ngự rắn chắc của quân Nga ở Narev. Những thắng lợi kế tiếp của Tập đoàn quân số 12 trước quân Nga trong chiến dịch mùa hè năm 1915, ông được trao tặng bó sồi đính kèm Huân chương Quân công vào ngày 29 tháng 8.

Mặc dù Gallwitz nhìn nhận rằng quân đội Đức không thể tiến hành một cuộc phòng ngự hiệu quả trên lãnh thổ Pháp vào tháng 11 năm 1918, ông kịch liệt phản đối việc ký kết một hiệp định đình chiến, lập luận rằng quân đội Đức phải rút lui về bản thổ và tiếp tuc chiến đấu vào năm 1919. Trong những ngày cuối cùng của chiến tranh, ông được đề cập là người thừa kế có tiềm năng của Tổng tham mưu trưởng Paul von Hindenburg. Ngoài ra, trong diễn tiến của cuộc chiến, ông đã hai lần được ghi nhận là người có thể sẽ trở thành Thủ tướng Đức. Vào ngày 6 tháng 12 năm 1918, ông xuất ngũ. Theo ghi nhận của nhà sử học Holger Afflerbach trong mục từ "Galllwitz" của bộ Từ điển Bách khoa Chiến tranh thế giới thứ nhất, ông còn là một người "bài Do Thái rõ rệt". Ngày 18 tháng 4 năm 1937, ông qua đời trong một chuyến đi nghỉ mát ở Ý.

Trích dẫn

Gallwitz được gán cho câu nói: "Chưa nơi nào tôi thấy bầy sư tử được chỉ huy bởi lũ cừu non như vậy", để mô tả lòng dũng cảm của những người lính Anh, trái ngược với sự tồi tệ của bộ chỉ huy của họ, trong Chiến dịch Somme vào tháng 6 năm 1916. Câu nói này đã được đề cập trong tựa đề của phim truyện Hoa Kỳ Lions for Lambs, sản xuất năm 2007, nói về cuộc chiến chống khủng bố của Hoa Kỳ. Phim có sự diễn xuất của Tom Cruise và Meryl Streep.

Tuy nhiên, trích dẫn này không hề được tìm thấy trong cả hồi ký của von Gallwitz (Trải nghiệm ở phía Tây 1916-1918, tiếng Đức: Erleben im Westen 1916–1918) lẫn nhật ký của ông, và do vậy, đây có lẽ chỉ là huyền thoại.

Vinh danh

Để vinh danh Max von Gallwitz, một số doanh trại đã được đặt theo tên ông ở Aachen (Doanh trại Gallwitz (Aachen)), Bonn (Doanh trại Gallwitz (Bonn), đã đóng cửa từ năm 2004), Freiburg (ngày nay là khách sạn Breisacher Hof) và Hildesheim (đóng cửa từ năm 2003). Tại quận Steglitz-Zehlendorf của Berlin, tên ông được cho Đại lộ Gallwitz (Gallwitzallee).

Vào năm 1915, Gallwitz được phong danh hiệu Công dân danh dự của thành phố Freiburg im Breisgau. Trường Đại học Freiburg cấp cho ông bằng Tiến sĩ danh dự (Ehrendoktor). Vào ngày 23 tháng 4 năm 1937, lễ quốc tang của ông được cử hành ở Freiburg.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Max Karl Wilhelm von Gallwitz** (2 tháng 5 năm 1852 tại Breslau – 18 tháng 4 năm 1937 tại Napoli) là Thượng tướng pháo binh quân đội Đức thời kỳ Đế quốc. Sinh ra ở
**Erich von Manstein** tên đầy đủ là **Fritz Erich Georg Eduard von Lewinski** (24 tháng 11 năm 1887 – 10 tháng 7 năm 1973) là một chỉ huy cấp cao của quân đội Đức thời
**Tập đoàn quân số 1** (Tiếng Đức**: 1_. Armee / Armeeoberkommando 1 / A.O.K 1**_) là một đơn vị cấp Tập đoàn quân của Đức trong Thế chiến thứ nhất. Quân đội bị giải thể
**Trận Verdun** là một trận lớn chính của mặt trận phía Tây trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Trận đánh nổ ra giữa quân đội Đức và Pháp từ 21 tháng 2 đến 19
**Chiến dịch tấn công Bug** là một trong 3 chiến dịch quân sự do khối Liên minh Trung tâm tổ chức nhằm vào quân đội Nga vào cuối năm 1915 trên Mặt trận phía Đông
nhỏ|Cuộc phản công của _Tập đoàn quân số 2_ tại Cambrai ngày 30 tháng 11 năm 1917 **Tập đoàn quân số 2** (Tiếng Đức: **_2. Armee / Armeeoberkommando 2 / A.O.K. 2_**) là một đơn
**Hiệp định đình chiến Compiègne** (, ) được ký vào ngày 11 tháng 11 năm 1918 trong một khu rừng gần thành phố Compiègne, thuộc vùng Picardy của Pháp. Hiệp định này đánh dấu sự
**1852** (số La Mã – **MDCCCLII**) là một năm nhuận bắt đầu vào thứ Năm trong lịch Gregory. ## Sự kiện ### Tháng 6 * 3 tháng 6 – Thái Bình Thiên Quốc công hạ
**Chiến dịch Serbia** là tên của một chuỗi các trận giao tranh giữa Vương quốc Serbia và Vương quốc Montenegro với các nước Liên minh Trung tâm gồm Đế quốc Áo-Hung, Đế quốc Đức và