Niên Canh Nghiêu (, phiên âm Mãn Châu: niyan geng yoo, 1679 - 1726), tự Lượng Công (亮功), hiệu Song Phong (双峰), là một đại thần người Hán thời nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. Ông được xem là người có vai trò quan trọng trong suốt hai triều Khang Hi và Ung Chính.
Thân thế
Niên Canh Nghiêu sinh năm 1679, nguyên quán tại Hoài Viễn, An Huy. Cha là Niên Hà Linh, từng là Tuần phủ Hồ Quảng (nay là Hồ Bắc) dưới triều Khang Hi. Năm Khang Hi thứ 39 (1700), Niên Canh Nghiêu đỗ Đồng tiến sĩ xuất thân, được vào Hàn Lâm viện làm Hàn Lâm Kiểm thảo, từng được bổ làm Chủ khảo thi Hương của hai tỉnh Tứ Xuyên và Quảng Đông, rồi lại chuyển làm Nội các Học sĩ.
Năm Khang Hi thứ 48 (1709), Hoàng tứ tử Dận Chân được tấn phong Ung Thân vương, giữ chức Kỳ chủ Tương Bạch kỳ. Em gái ông được phong làm Trắc Phúc tấn của Ung Thân vương. Nhờ đó, gia tộc Niên vốn thuộc Hán quân Tương Bạch kỳ, nay càng trở nên vinh hiển trong hàng ngũ quý tộc Thanh triều. Bản thân ông cũng trở thành thân tín của Ung Thân vương, ngay năm đó được bổ làm Tuần phủ Tứ Xuyên. Trong suốt 16 năm làm quan cai trị ở Tứ Xuyên, ông đã có nhiều công lao trong thực thi quyền lực của Thanh triều tại một trong những vùng đất có nhiều bộ tộc thiểu số sinh sống với truyền thống tự trị.
Sự nghiệp quân sự
Năm Khang Hi thứ 56 (1717), một thủ lĩnh bộ tộc Chuẩn Cát Nhĩ là Sách Vọng A Lạp Bố Thản (策妄阿拉布坦) bất ngờ giết chết Lạp Tàng Hãn (拉藏汗), cũng chính là cha vợ của ông ta, dẫn quân chiếm cứ Tây Tạng, tìm cách khống chế Đạt-lại Lạt-ma. Đề đốc Tứ Xuyên là Khang Thái dẫn quân đánh dẹp, nhưng trên đường đi binh sĩ lại bất ngờ nổi loạn, Khang Thái đành phải rút về. Niên Canh Nghiêu biết được, một mặt sai Tham tướng Dương Tận Tín phủ dụ trấn an binh sĩ, mặt khác mật báo về triều đình; đồng thời xin cho mình được giải quyết việc này. Khang Hi khen ngợi Niên Canh Nghiêu tận tâm làm việc, rồi phái Đô thống Pháp La dẫn binh vào Tứ Xuyên giúp ông dẹp phản loạn. Do Tuần phủ không có quyền sử dụng binh lính mà ở Tứ Xuyên việc quân lại rất quan trọng nên năm sau đó đã thăng chức cho Niên làm Tổng đốc Tứ Xuyên kiêm việc Tuần phủ đốc quân Tứ Xuyên vào Tây Tạng dẹp loạn. Năm Khang Hi thứ 59 (1720), Niên được thụ phong chức Định Tây Tướng quân, phò tá Phủ viễn Đại tướng quân Dận Đề dẹp loạn.
Do lập được nhiều công trạng, năm sau Niên được gọi về chầu Khang Hi và được thăng Tổng đốc Xuyên Thiểm, được ban thưởng cho cung tên và nhiều vật phẩm khác.
Phò tá tân quân
Khang Hi qua đời năm 1723. Trước khi chết, ông chỉ định Ung Thân vương Dận Chân là người kế vị. Mặc dù vậy, vẫn tồn tại hiểm hoạ tranh giành quyền lực giữa các Hoàng tử của Khang Hi. Là một tướng lĩnh nắm binh quyền, cùng với Long Khoa Đa, Niên đã có ảnh hưởng không nhỏ trong việc giữ vững ngôi vị cho Tân đế Ung Chính. Sau khi Hoàng thân Dận Đề được triệu hồi về kinh, ông được thăng làm Phủ viễn Đại tướng quân, cùng Đề đốc Nhạc Chung Kỳ suất lĩnh binh lính trấn áp cuộc nổi loạn ở Thanh Hải của La Bố Tàng Đan Tân (罗布藏丹津), buộc La Bố Tàng Đan Tân phải đào thoát về Mông Cổ. Nhờ chiến tích này, Niên được gia phong hàm Thái bảo, tước Nhất đẳng Công.
Kết cục bi thảm
Khi vinh hiển đến lúc tột đỉnh, Niên cũng đã tự chuốc lấy bao nhiêu sự ganh ghét của đồng liêu cũng như người em rể đầy quyền lực: Ung Chính. Năm Ung Chính thứ 3 (1725), nhân việc Niên mắc một lỗi nhỏ, cộng thêm sự vu cáo của một số triều thần ganh ghét, Ung Chính cách chức Tổng đốc Xuyên Thiểm của Niên, giáng xuống làm Hàng Châu Tướng quân, làm nhiệm vụ huấn luyện tân binh.
Niên một lòng tận tâm, không hiểu rằng sự ủng hộ chính trị của Ung Chính với ông ta đã dứt và người em rể này đang tìm cách hạ thủ ông ta. Niên ngây thơ dâng tấu biểu lên Ung Chính, mong muốn có thể được tái dụng để thực hiện được các đề xuất của mình. Điều này càng làm Ung Chính xuống tay mạnh mẽ, công khai phê phán Niên là "cách nhìn thay đổi, không biết dụng ý gì.". Khác với Niên, nhiều quần thần nắm được tâm ý Hoàng đế, đã hùa vào kết tội Niên. Tổng đốc Trực Lệ Lý Duy Quân đàn hặc Niên là "Tập hợp quyền lực tác quái, lạm quyền để làm giàu, chia bè kết cánh, thâm lạm công quỹ, giết người vô cớ, tàn hại lương dân".
Đầu năm 1726, Niên bị bắt và bị giải về kinh để xử tội. Niên bị kết cả thảy là 92 tội mà hầu hết là phóng đại hoặc vu khống vô căn cứ nhưng lại hợp ý Hoàng đế. Ung Chính cho Niên hình phạt "Tứ tử" (ban chết) và Niên đã chọn cách tự vẫn trong ngục.
Gia đình
- Cha: Niên Hà Linh (年遐龄, ? - 1727), từng nhậm Bút thiếp thức, Binh bộ Chủ sự, Hình bộ Lang trung, Hà Nam đạo Ngự sử, Công bộ Thị lang, Hồ Quảng Tuần phủ. Năm Ung Chính nguyên niên (1723), ông được gia hàm Nhất phẩm Thượng thư, 1 năm sau gia hàm Thái phó, được phong làm Nhất đẳng Công, ban thưởng Song nhãn Hoa linh.
- Anh trai:
Niên Hi Nghiêu (年希尧, 1671 - 1738), từng đảm nhận các chức vụ Công bộ Hữu Thị lang, Nội vụ phủ Tổng quản Đại thần, Cảnh Đức trấn Ngự diêu xưởng giám tạo.
Niên Pháp Nghiêu (年法尧)
Niên Tắc Nghiêu (年则尧)
Niên Thuật Nghiêu (年述尧)
- Em gái:
Niên thị, gả cho Hồ Phượng Huy (胡凤翚). Hồ Phượng Huy từng nhậm Tô Châu Chức tạo. Về sau hai vợ chồng tự sát tại nơi ở.
Niên thị, Trắc Phúc tấn của Dận Chân, tức Đôn Túc Hoàng quý phi của Ung Chính Đế.
Thê thiếp
- Nguyên phối: Nạp Lan thị (纳兰氏), con gái của Nạp Lan Tính Đức, cháu nội của Nạp Lan Minh Châu.
- Kế thất: Ái Tân Giác La thị, con gái của Phụ quốc công Tố Nghiêm (素嚴) - con trai trưởng của Dĩ cách Phụ quốc công Xước Khắc Thác. Xước Khắc Thác là con trai của Phó Lặc Hách, cháu nội của A Tế Cách.
Hậu duệ
- Con trai:
# Niên Hi (年熙)
# Niên Phú (年富)
*# Niên Bân (年斌)
- Con gái: gả vào gia tộc Khổng thị ở Khúc Phụ, tức hậu duệ của Khổng Tử.
Trong văn hóa đại chúng
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Niên Canh Nghiêu** (, phiên âm Mãn Châu: _niyan geng yoo_, 1679 - 1726), tự **Lượng Công** (_亮功_), hiệu **Song Phong** (_双峰_), là một đại thần người Hán thời nhà Thanh trong lịch sử Trung
**Cung Toả Tâm Ngọc** (còn gọi là **Cung;** hay **Ngọc sáng Hoàng cung**) là bộ phim truyền hình cổ trang lịch sử-chuyển thể ngôn tình đình đám của Trung Quốc. Bộ phim ra mắt vào
**Nhạc Chung Kỳ** (chữ Hán: 岳锺琪, 1686 – 1754), tự **Đông Mỹ** (東美), hiệu **Dung Trai** (容齋), người Thành Đô, Tứ Xuyên, tướng lãnh nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. ## Thời Khang Hi
**Thanh Thế Tông** (chữ Hán: 清世宗, 13 tháng 12 năm 1678 – 8 tháng 10 năm 1735), pháp hiệu **Phá Trần Cư Sĩ**, **Viên Minh Cư Sĩ**, Tây Tạng tôn vị **Văn Thù Hoàng đế**
**_Thanh sử cảo_** (清史稿) là bản thảo một bộ tư liệu lịch sử về thời nhà Thanh, bắt đầu từ khi Nỗ Nhĩ Cáp Xích (hay Thanh Thái Tổ) lập ra nhà Thanh vào năm
**Đôn Túc Hoàng quý phi** (chữ Hán: 敦肅皇貴妃; Khoảng 1695 - 27 tháng 12, năm 1725), Niên thị (年氏), Hán Quân Tương Hoàng kỳ, là một phi tần rất được sủng ái của Thanh Thế
**Dương Di** (tiếng Anh: Tavia Yeung, sinh ngày 30 tháng 8 năm 1979), sau đổi thành **Dương Thiến Nghiêu**, là một nữ diễn viên kiêm ca sĩ người Hồng Kông. Cô từng là diễn viên
**Thanh Thánh Tổ** (chữ Hán: 清聖祖; 4 tháng 5 năm 165420 tháng 12 năm 1722), Tây Tạng tôn vị **Văn Thù Hoàng đế** (文殊皇帝), là vị hoàng đế thứ ba của nhà Thanh và cũng
**Hiếu Kính Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝敬憲皇后; ; 28 tháng 6, năm 1681 - 29 tháng 10, năm 1731), là Hoàng hậu duy nhất tại vị của Thanh Thế Tông Ung Chính Hoàng đế.
**Gintaisi** (chữ Mãn: Hình:gintaisi.png; ? – 29 tháng 9 năm 1619), tài liệu Trung Quốc chép là **Jintaishi** (, _Kim Đài Thạch_, _Cẩm Đài Thập_), hay **Jintaiji** (, _Kim Đài Cát_), là Bối lặc cuối
**Nhà Thanh** hay **Trung Hoa Đại Thanh quốc**, **Đại Thanh Đế Quốc**, còn được gọi là **Mãn Thanh** (chữ Hán: 满清, ), là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Trung Quốc. Nguồn
**Dận Tường** (chữ Hán: 胤祥; ; 17 tháng 11, năm 1686 - 18 tháng 6, năm 1730), Ái Tân Giác La, là vị Hoàng tử thứ 13 (tính trong số các Hoàng tử còn sống
**Từ Cẩm Giang** (chữ Hán: 徐錦江, bính âm: _Xu Jin Jiang_, âm Quảng Đông: _Tsui Kam-Kong_, tên tiếng Anh: **Elvis Tsui Kam-kong**, sinh ngày 13 tháng 10 năm 1961) là một nam diễn viên người
**Duyên Tín** (chữ Hán: 延信; 1673 - 1728), Ái Tân Giác La, là một Tông thất của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Duyên Tín được sinh ra vào giờ Dần,
thumb|Tranh vẽ [[Dương Quý phi - vị Quý phi nổi tiếng nhất trong lịch sử]] **Quý phi** (chữ Hán: 貴妃; Bính âm: guìfēi), là một danh hiệu dành cho phi tần trong hậu cung của
**Long Khoa Đa** (chữ Hán: 隆科多; ; ? - 1728) là một trong những đại thần dưới thời Khang Hi và Ung Chính. Ông cùng Niên Canh Nghiêu là 2 trọng thần góp phần quan
**Nạp Lan Tính Đức** (Chữ Hán: 納蘭性德, phiên âm: Nalan Xing De; 19 tháng 1 năm 1655 - 1 tháng 7 năm 1685), tên nguyên là **Thành Đức** (成德), tự **Dung Nhược** (容若), hiệu **Lăng
**Biện lý Quân cơ sự vụ xứ** (, chữ Hán: 辦理軍機事務處), giản xưng là **Quân cơ xứ** (軍機處), trước có tên là **Quân nhu phòng** (軍需房), **Quân cơ phòng** (軍機房); là một cơ quan cao
**Năm 1679** (Số La Mã:MDCLXXIX) là một năm thường bắt đầu vào ngày Chủ nhật (liên kết sẽ hiển thị đầy đủ lịch) trong lịch Gregory (hoặc một năm thường bắt đầu vào thứ Tư
Năm **1726** (số La Mã: MDCCXXVI) là một năm thường bắt đầu vào thứ Ba trong lịch Gregory (hoặc một năm thường bắt đầu vào thứ Bảy của lịch Julius chậm hơn 11 ngày). ##
nhỏ|_Tương Hoàng kỳ_|thế=**Tương Hoàng kỳ** (, tiếng Trung: 鑲黃旗, tiếng Anh: _Bordered Yellow Banner_) là Kỳ đứng đầu (頭旗, ) trong chế độ Bát Kỳ của Thanh triều, lấy cờ sắc vàng viền đỏ mà
**Đế Thuấn** (chữ Hán: 帝舜), cũng gọi **Ngu Thuấn** (虞舜), là một vị vua huyền thoại thời Trung Quốc cổ đại, nằm trong Ngũ Đế. Ông được Đế Nghiêu nhượng vị trở thành vua Trung
**Kinh Thư** (書經 _Shū Jīng_) hay còn gọi là **Thượng Thư** (尚書) là một bộ phận trong bộ sách Ngũ Kinh của Trung Quốc, ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua
**_Hoa Mộc Lan_** (tựa tiếng Anh: **_Mulan_**) là bộ phim hoạt hình thứ 36 của hãng hoạt hình Walt Disney, công chiếu vào ngày 19 tháng 6 năm 1998. Bộ phim nằm trong thời "Phục
**Vương Dung** (, 877?-921), là một quân phiệt vào cuối thời nhà Đường và sau trở thành người cai trị duy nhất của nước Triệu thời Ngũ Đại Thập Quốc. Thời Đường, Vương Dung thoạt
**Tử Cấm Thành** () là một khu phức hợp cung điện ở khu Đông Thành thuộc Bắc Kinh, Trung Quốc, với tổng diện tích 720.000 mét vuông (180 mẫu). Dù là khu phức hợp cung
nhỏ|phải|Bão nguyệt bình (抱月瓶): chiếc bên trái sử dụng kỹ thuật _[[đấu thái_ còn chiếc bên phải sử dụng kỹ thuật _phấn thái_ hay _famille rose_. Đồ gốm Cảnh Đức Trấn, thời Ung Chính (1723–1735).]]
**Lê Thái Tổ** (chữ Hán: 黎太祖 10 tháng 9 năm 1385 – 5 tháng 10 năm 1433), tên thật là **Lê Lợi** (黎利) là một nhà chính trị, nhà lãnh đạo quân sự, người đã
**Khấu Chuẩn** (chữ Hán: 寇準; bính âm: Kòu zhǔn) (961 - 1023) tên chữ **Bình Trọng** (平仲), quê ở Hạ Khuê, Hoa Châu (nay là Vị Nam, Thiểm Tây), là đại thần Bắc Tống, từng
**_Kinh Dịch_** (chữ Nôm: 經易), tên gốc là **_Dịch Kinh_** (chữ Hán: 易經), là một sách bói toán cổ xưa của Trung Quốc, nằm trong hàng ngũ những kinh điển cổ xưa nhất của nền
**Hậu Tắc** (chữ Hán: 后稷, 2445 TCN - ?), tên thật là **Cơ Khí** (姬弃), là tổ tiên nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. ## Ra đời Hậu Tắc sinh ra tại Tắc Sơn
**_Đường Sơn đại địa chấn_** (tiếng Trung: _唐山大地震_, tiếng Anh: _Aftershock_) là một bộ phim điện ảnh Trung Quốc thuộc thể loại thảm họa – chính kịch ra mắt vào năm 2010 do Phùng Tiểu
**Sát Phá Lang** hay **Sha Po Lang**, viết tắt **SPL** (tựa tiếng Hoa: **殺破狼**; tựa tiếng Anh: **Kill Zone**) là một bộ phim hình sự - hành động - võ thuật - tâm lý của
**Lưu Thái công** (chữ Hán: 劉太公; 277/271 TCN - 197 TCN), được biết đến là cha của Hán Cao Tổ Lưu Bang - người thành lập nên triều đại nhà Hán. Đồng thời, ông là
**_Sứ mạng song sinh_**, hay còn biết với tựa đề **_Song tử thần thâu_** (; tiếng Anh: **Twins Mission**) là một bộ phim hài hước - hành động - võ thuật do Hồng Kông sản
**Ngụy Văn hầu** (chữ Hán: 魏文侯; trị vì: 403 TCN - 387 TCN hoặc 403 TCN-396 TCN), tên thật là **Ngụy Tư** (魏斯), là vị quân chủ khai quốc của nước Ngụy - chư hầu
**Hán Cao Tổ** (chữ Hán: 漢高祖; 256 TCN – 1 tháng 6 năm 195 TCN), húy **Lưu Bang** (劉邦), biểu tự **Quý** (季), là vị hoàng đế khai quốc của triều đại nhà Hán trong
thumb|Mạnh Tử, từ cuốn _Myths and Legends of China_, 1922 của E. T. C. Werner|thế= **Mạnh Tử** (chữ Hán: 孟子; bính âm: Mèng Zǐ; 372 TCN – 289 TCN) là triết gia Nho giáo Trung
thumb|"Luận ngữ chú sơ" của [[Hình Bính]] thumb|"Luận ngữ tập giải" của [[Hà Yến]] thumb| thumb| thumb|Luận ngữ khai quật được tại [[Hang Mạc Cao]] **Luận Ngữ** (論語) là một cuốn sách do Khổng Tử
**Doãn Đường** (_,_ chữ Hán: 允禟_;_ 17 tháng 10 năm 1683 – 22 tháng 9 năm 1726), là Hoàng tử thứ 9 tính trong số những người con sống tới tuổi trưởng thành của Thanh
**Thiện nhượng** (_chữ Hán_: 禪讓) có nghĩa là _nhường lại ngôi vị_, được ghép bởi các cụm từ **Thiện vị** và **Nhượng vị**, là một phương thức thay đổi quyền thống trị của những triều
**Tống sử** (chữ Hán: 宋史) là một bộ sách lịch sử trong Nhị thập tứ sử của Trung Hoa. Sách này kể lịch sử thời nhà Tống, tức là Bắc Tống và Nam Tống; được
**Trương quý phi** (chữ Hán: 張貴妃; 1024 - 1054), còn gọi **Ôn Thành Hoàng hậu** (溫成皇后), là một phi tần rất được sủng ái của Tống Nhân Tông Triệu Trinh. Cuộc đời Trương quý phi
**Tống Nhân Tông** (chữ Hán: 宋仁宗, 12 tháng 5, 1010 - 30 tháng 4, 1063), tên húy **Triệu Trinh** (趙禎), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc,
Đây là bản dịch tiếng Việt của tham luận (bằng tiếng Anh) của TS. Trần Đức Anh Sơn đã viết để tham gia “Conference on Nguyen Vietnam: 1558 – 1885” (Hội thảo về nhà Nguyễn
**Nhà Hạ** (, khoảng thế kỷ 21 TCN - khoảng thế kỷ 16 TCN) là một triều đại lịch sử chưa được kiểm chứng của Trung Quốc, đây là triều đại được nhiều nhà nghiên
**Trần Minh Tông** (chữ Hán: 陳明宗 4 tháng 10 năm 1300 – 10 tháng 3 năm 1357) tên thật là **Trần Mạnh** (陳奣), là vị hoàng đế thứ năm của Hoàng triều Trần nước Đại
**Vân Nam** () là một tỉnh ở phía tây nam của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, giáp biên giới với các tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai và Tuyên Quang của Việt Nam.
**Thái Ngạc** (Phồn thể: 蔡鍔; Giản thể: 蔡锷; Bính âm: Cài È; Wade–Giles: Ts'ai O; 18 tháng 12 năm 1882 – 8 tháng 11 năm 1916) là môt lãnh tụ Cách mạng - quân phiệt
**Thẩm Khánh Chi**, tự **Hoằng Tiên**, người Vũ Khang, Ngô Hưng, là danh tướng nhà Lưu Tống thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. ## Thiếu thời Thẩm Khánh Chi từ nhỏ đã