✨Mùa bão Đông Bắc Thái Bình Dương 1997

Mùa bão Đông Bắc Thái Bình Dương 1997

Mùa bão Đông Bắc Thái Bình Dương 1997 là một mùa bão hoạt động rất mạnh, nguyên nhân bởi hiện tượng El Niño. Với hàng trăm người thiệt mạng cùng tổn thất hàng triệu USD, đây là một trong những mùa bão gây thiệt hại nhân mạng lớn nhất, và là mùa bão gây thiệt hại vật chất nhiều nhất từng được ghi nhận . Mùa bão chính thức bắt đầu từ ngày 15 tháng 5 năm 1997 trên vùng Đông (Bắc) Thái Bình Dương; và từ ngày 1 tháng 6 năm 1997 trên vùng Trung tâm Thái Bình Dương; cuối cùng kết thúc vào ngày 30 tháng 11 cùng năm. Đây là những thời điểm quy ước phân định khoảng thời gian tập trung hầu hết số lượng xoáy thuận nhiệt đới hình thành mỗi năm trên Đông Bắc Thái Bình Dương.

Trong mùa bão này đã có một vài cơn bão tác động đến đất liền. Đầu tiên là bão nhiệt đới Andres, nó đã khiến bốn người chết và hai người khác mất tích. Trong tháng 8, những tàn dư của bão nhiệt đới Ignacio đã gây thiệt hại nhỏ đến vùng Tây Bắc Thái Bình Dương và California. Sang tháng 9, Linda đã trở thành cơn bão mạnh thứ hai từng được ghi nhận trong lịch sử trên vùng Đông Bắc Thái Bình Dương, dù vậy nó không đổ bộ lên đất liền. Bão Nora đã gây lũ lụt và tổn thất cho vùng Tây Nam Hoa Kỳ, trong khi đó bão nhiệt đới Olaf đã đổ bộ hai lần và khiến 18 người thiệt mạng cùng vài người khác mất tích. Vào đầu tháng 10, bão Pauline là nguyên nhân gây ra cái chết của hàng trăm người và nó đã gây thiệt hại kỷ lục tại vùng Đông Nam Mexico. Ngoài ra, có hai cơn bão hình thành trên khu vực này sau đó vượt đường đổi ngày quốc tế và gây tổn thất nghiêm trọng bên vùng Tây Bắc Thái Bình Dương, bão Oliwa và Paka. Mùa bão đã chứng kiến hai cơn bão cấp 5 là Linda và Guillermo.

Mùa bão 1997 đã tạo ra 17 cơn bão nhiệt đới, nhiều hơn 2 cơn so với trung bình. Số lượng bão cuồng phong là 10, cũng nhiều hơn trung bình 2 cơn. Và số lượng bão (cuồng phong) lớn (major hurricane) là 7, lớn hơn so với giá trị trung bình là 4. Tổng hợp lại, đây là một mùa bão hoạt động mạnh hơn tương đối đáng kể so với trung bình.

Tóm lược mùa bão

Mùa bão Đông Bắc Thái Bình Dương 1997 chính thức bắt đầu từ ngày 15 tháng 5 năm 1997 trên vùng Đông Bắc Thái Bình Dương; và từ ngày 1 tháng 6 năm 1997 trên vùng Trung tâm Thái Bình Dương; cuối cùng kết thúc vào ngày 30 tháng 11 cùng năm. Đây là những thời điểm quy ước phân định khoảng thời gian tập trung hầu hết số lượng xoáy thuận nhiệt đới hình thành mỗi năm trên khu vực này. Tuy nhiên, mùa bão đã kéo dài khá xa so thời điểm kết thúc chính thức, khi mà bão nhiệt đới Paka hình thành vào ngày 2 tháng 12 và tan 19 ngày sau trên vùng Tây Bắc Thái Bình Dương.

Đây là một mùa bão hoạt động khá mạnh, do hiện tượng El Niño mạnh xảy ra tại thời điểm đó. Bởi El Niño, đột đứt gió đã giảm và nhiệt độ nước biển tăng, tạo ra những điều kiện thuận lợi hơn cho các xoáy thuận nhiệt đới trên vùng Đông Bắc Thái Bình Dương. Tổng cộng có 24 xoáy thuận, bao gồm cả năm áp thấp nhiệt đới không có tên, 19 trong số đó hình thành trên vùng Đông Bắc Thái Bình Dương. Có 8 cơn bão nhiệt đới, 10 bão cuồng phong, 7 cơn bão đạt cấp độ lớn hơn 3 trong thang Saffir-Simpson. Cơn bão cuồng phong đầu tiên của mùa bão là Dolores, và bão lớn đầu tiên là bão Enrique. Trong giai đoạn chính thức (từ tháng 6 đến hết tháng 11), hầu như tháng nào cũng có vài cơn bão hoạt động. Cơn bão đầu tiên hình thành vào ngày 1 tháng 6, và với cơn bão cuối cùng tan vào ngày 21 tháng 12 thì đây là mùa bão kết thúc muộn nhất từng được biết đến. Tuy nhiên, bão Paka đã di chuyển ra khỏi khu vực từ ngày 6 tháng 12, và kể từ đó nó không còn thuộc về mùa bão Đông Bắc Thái Bình Dương. Do vậy với thời điểm 6 tháng 12, đây là mùa bão kết thúc muộn thứ hai, sau mùa bão 1983 và ngang bằng với mùa bão 1957.

Bảng tóm lược

ImageSize = width:815 height:200 PlotArea = top:10 bottom:80 right:20 left:20 Legend = columns:3 left:30 top:58 columnwidth:270

AlignBars = early DateFormat = dd/mm/yyyy Period = from:01/05/1997 till:01/01/1998 TimeAxis = orientation:horizontal ScaleMinor = grid:black unit:month increment:1 start:01/05/1997

Colors = id:canvas value:gray(0.88) id:GP value:red id:TD value:rgb(0.38,0.73,1) legend:Áp_thấp_nhiệtđới=_<39mph(0-62km/h)(TD) id:TS value:rgb(0,0.98,0.96) legend:Bão_nhiệtđới=_39-73mph(63–117 km/h)_(TS) id:C1 value:rgb(1,0.97,0.58) legend:Bão_cấp1=_74–95mph(119–153km/h)(C1) id:C2 value:rgb(1,0.85,0.13) legend:Bão_cấp2=_96–110mph(154–177km/h)(C2) id:C3 value:rgb(1,0.56,0.13) legend:Bão_cấp3=_111–129mph(178–208-km/h)_(C3) id:C4 value:rgb(1,0.38,0.38) legend:Bão_cấp4=_130–156mph(209–251km/h)(C4) id:C5 value:rgb(0.77,0.39,0.85) legend:Bão_cấp5=_≥157mph(≥252km/h)(C5)

Backgroundcolors = canvas:canvas

BarData = barset:Hurricane bar:Month

PlotData= barset:Hurricane width:10 align:left fontsize:S shift:(4,-4) anchor:till from:01/06/1997 till:07/06/1997 color:TS text:"Andres" from:09/06/1997 till:12/06/1997 color:TS text:"Blanca" from:21/06/1997 till:24/06/1997 color:TD text:"Three-E" from:25/06/1997 till:28/06/1997 color:TS text:"Carlos" from:29/06/1997 till:04/07/1997 color:TD text:"Five-E" from:05/07/1997 till:12/07/1997 color:C1 text:"Dolores" from:12/07/1997 till:16/07/1997 color:C3 text:"Enrique" from:14/07/1997 till:22/07/1997 color:C4 text:"Felicia" barset:break from:26/07/1997 till:27/07/1997 color:TD text:"One-C" from:30/07/1997 till:15/08/1997 color:C5 text:"Guillermo" from:10/08/1997 till:15/08/1997 color:TS text:"Hilda" from:17/08/1997 till:19/08/1997 color:TS text:"Ignacio" from:25/08/1997 till:30/08/1997 color:C4 text:"Jimena" from:02/09/1997 till:04/09/1997 color:TS text:"Oliwa" from:03/09/1997 till:07/09/1997 color:TS text:"Kevin" from:09/09/1997 till:17/09/1997 color:C5 text:"Linda" barset:break from:12/09/1997 till:16/09/1997 color:TS text:"Marty" from:16/09/1997 till:26/09/1997 color:C4 text:"Nora" from:26/09/1997 till:12/10/1997 color:TS text:"Olaf" from:05/10/1997 till:10/10/1997 color:C4 text:"Pauline" from:06/10/1997 till:07/10/1997 color:TD text:"Three-C" from:30/10/1997 till:31/10/1997 color:TD text:"Four-C" from:07/11/1997 till:10/11/1997 color:C2 text:"Rick" from:28/11/1997 till:06/12/1997 color:TS text:"Paka bar:Month width:5 align:center fontsize:S shift:(0,-20) anchor:middle color:canvas from:01/05/1997 till:01/06/1997 text:Tháng 5 from:01/06/1997 till:01/07/1997 text:Tháng 6 from:01/07/1997 till:01/08/1997 text:Tháng 7 from:01/08/1997 till:01/09/1997 text:Tháng 8 from:01/09/1997 till:01/10/1997 text:Tháng 9 from:01/10/1997 till:01/11/1997 text:Tháng 10 from:01/11/1997 till:01/12/1997 text:Tháng 11 from:01/12/1997 till:01/01/1998 text:Tháng 12

TextData = pos:(610,30) text:"(Theo" pos:(640,30) text:"thang bão Saffir–Simpson)"

Mùa bão bắt đầu với sự hình thành của áp thấp nhiệt đới One-E vào ngày 1 tháng 6 và kết thúc với sự tan biến của bão Paka trong ngày 22 tháng 12. Tuy nhiên mùa bão này có thể được xem là đã kết thúc từ ngày 6 tháng 12, thời điểm mà bão Paka vượt đường đổi ngày quốc tế đi sang khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương. Trong tháng 5 không có cơn bão nào hoạt động, tháng 6 có ba, tháng 7 bốn, tháng 8 bốn, tháng 9 năm, tháng 10 một, và tháng 11 có một cơn. Một điều rất bất thường là đã có một cơn bão nhiệt đới hình thành vào tháng 12, sau thời điểm kết thúc chính thức. Điều này chỉ xảy ra hai lần kể từ khi kỷ nguyên vệ tinh bắt đầu từ năm 1971, vào các mùa bão 1983 và 2010.

Các cơn bão

Bão Andres

Một vùng nhiễu động nhiệt đới đã dần tổ chức thành áp thấp nhiệt đới One-E vào ngày 1 tháng 6. Ngày hôm sau, nó đã mạnh lên thành bão nhiệt đới, với một hoàn lưu thứ hai hình thành ở phía Bắc - Tây Bắc hoàn lưu ban đầu. Tuy nhiên, hoàn lưu trước đã trở nên bị lấn át, và Andres mạnh lên thêm một chút. Sau một giai đoạn ngắn di chuyển theo quỹ đạo bình thường Tây Bắc, Andres đã bị tác động bởi gió Tây khiến cho nó vòng sang hướng Đông và trở thành cơn bão đầu tiên trong năm đe dọa đến Trung Mỹ. Dự báo ban đầu cho rằng hệ thống sẽ vượt qua eo đất và đi vào biển Caribe, tuy nhiên Andres đã chuyển hướng Đông Nam di chuyển song song với đất liền. Đây là lần đầu tiên ghi nhận được một cơn bão Đông Bắc Thái Bình Dương có quỹ đạo bất thường như vậy. Tiếp theo Andres suy yếu xuống còn áp thấp nhiệt đới và đổ bộ lên địa điểm gần San Salvador trong ngày 7 tháng 6 rồi tan không lâu sau đó.

Andres đã khiến bốn người thiệt mạng, cùng với hai ngư dân được báo cáo là mất tích. Bên cạnh đó, cơn bão còn gây tình trạng mất điện, lũ trên các con sông, một số vụ đụng xe, và làm hư hại khoảng 10 ngôi nhà. Tổn thất cũng được ghi nhận tại Nicaragua.

Bão Blanca

Áp thấp nhiệt đới Two-E hình thành từ một vùng áp suất thấp rộng lớn trong ngày 9 tháng 6, và chỉ sáu tiếng sau nó đã mạnh lên thành bão nhiệt đới Blanca. Cơn bão đạt đỉnh với vận tốc gió 45 dặm/giờ (75 km/giờ). Tuy nhiên, bởi hoàn lưu không ổn định, Blanca bắt đầu suy yếu, và đến ngày 12 tháng 6 nó đã giảm cấp xuống còn áp thấp nhiệt đới. Không lâu sau cơn bão đã mất đi hoàn lưu kín và do đó nó được tuyên bố là đã tan.

Blanca đã đe dọa đến đất liền trong một thời gian ngắn vào ngày 10 tháng 16 khi mà Cơ quan Khí tượng Quốc gia Mexico đưa ra những cảnh báo đến một số địa điểm. Tuy nhiên, ngay sau đó một áp cao đã chi phối hướng Blaca di chuyển ra xa đất liền. Không có tổn thất lớn hay trường hợp thiệt mạng nào do tác động của Blanca nhìn chung là không đáng kể.

Áp thấp nhiệt đới 5-E

Áp thấp nhiệt đới Five-E hình thành vào chiều ngày 29 tháng 6 và nó đã di chuyển thất thường về phía Tây. Trong ngày 1 tháng 7, áp thấp nhiệt đới suy yếu đi một chút, nhưng đã nhanh chóng mạnh trở lại sau đó. Hệ thống tan vào ngày 4 tháng 7 và không đe đọa đến đất liền.

Bão Dolores

Bão Enrique

Bão Felicia

Một vùng thời tiết nhiễu động rộng lớn đã hình thành vào ngày 13 tháng 7. Hệ thống sau đó phát triển thành một áp thấp nhiệt đới trên vùng biển phía Nam Manzanillo, Colima trong ngày hôm sau. Ban đầu áp thấp nhiệt đới tăng cường chậm chạp bởi độ đứt gió không phù hợp do vị trí của nó nằm gần với cơn bão Enrique trong khoảng hai ngày. Tuy nhiên, áp thấp nhiệt đới đã mạnh lên thành bão nhiệt đới Felicia vào cuối ngày 15 khi nó di chuyển theo hướng Tây - Tây Bắc. Quá trình tăng cường tiếp tục, và một mắt bão đã hình thành. Do đó, Felicia được nâng cấp lên thành bão cuồng phong vào ngày 17. Tiếp theo, sự phát triển đã chững lại một lần nữa bởi độ đứt gió, và như vậy cường độ của cơn bão không thể tăng thêm. Sau khi độ đứt gió giảm, Felicia bắt đầu mạnh lên và đạt cường độ tối đa với vận tốc gió 135 dặm/giờ (215 km/giờ) cùng áp suất 948 mbar (hPa), tương ứng bão cấp 4. Di chuyển chủ yếu theo hướng Tây, hệ thống đã đi vào vùng nước lạnh, kết hợp với việc độ đứt gió tăng lên lần thứ ba, Felicia dần duy yếu. Không lâu sau khi giảm cấp xuống bão nhiệt đới, nó đã vượt kinh tuyến 140°T, trước khi tiếp tục suy giảm xuống còn áp thấp nhiệt đới vào ngày 22. Không có tổn thất nào được ghi nhận.

Áp thấp nhiệt đới 1-C

Vào ngày 23 tháng 7, một vùng nhiễu động nhiệt đới biểu lộ dấu hiệu phát triển và ba ngày sau nó đã trở thành áp thấp nhiệt đới One-C. Hệ thống di chuyển theo hướng Tây - Tây Nam dưới một môi trường không thuận lợi. Áp thấp nhiệt đới tan vào sáng ngày 27, do độ đứt gió mạnh gây ra bởi một rãnh thấp trên tầng cao. Không có thiệt hại nào được báo cáo.

Sau đó Guillermo suy yếu chậm, và đến ngày 8 tháng 8 nó đã giảm cấp xuống còn bão nhiệt đới, trước khi vượt kinh tuyến 140°T đi vào vùng Trung tâm Thái Bình Dương. Cuối ngày mùng 8 Guillermo suy yếu xuống áp thấp nhiệt đới, nhưng 24 giờ sau nó đã mạnh trở lại thành bão nhiệt đới khi gặp được một vùng nước ấm nhỏ. Một thời gian sau cơn bão lại suy yếu và cuối cùng nó đã chuyển đổi thành một xoáy thuận ngoại nhiệt đới trong sáng sớm ngày 16. Những tàn dư của Guillermo đã di chuyển vòng lại trên vùng Bắc Thái Bình Dương, sau đó chúng tồn tại thêm vài ngày, trôi dạt về phía Nam trước khi bị hấp thụ bởi một xoáy thuận vĩ độ trung trong ngày 24 tháng 8 ngoài khơi California.

Bão Ignacio

Bão Jimena

Bão Oliwa

Bão Kevin

Bão Linda

Một vùng nhiễu động nhiệt đới hình thành vào ngày 9 tháng 12 đã phát triển thành áp thấp nhiệt đới 14-E trong cùng ngày. Hệ thống di chuyển theo hướng Tây Bắc và mạnh lên thành bão nhiệt đới Linda trong ngày hôm sau. Tiếp đó, Linda mạnh lên rất nhanh và đạt đến cấp độ bão cuồng phong vào ngày 11. Linda đạt đỉnh trong ngày 12 với sức gió tối đa 185 dặm/giờ (295 km/giờ) cùng áp suất tối thiểu 902 mbar (902 hPa), những giá trị giúp cho nó trở thành cơn bão Đông Bắc Thái Bình Dương mạnh nhất từng được ghi nhận tại thời điểm đó. Một thời gian sau, Linda di chuyển vào vùng nước lạnh và suy yếu xuống thành bão nhiệt đới trong ngày 16. Tiếp theo cơn bão tiếp tục suy yếu chậm cho đến khi tan vào ngày 17.

Linda đã di chuyển qua rất gần đảo Socorro.

Bão Marty

Bão Nora

Bão Olaf

Bão Pauline

Áp thấp nhiệt đới Three-C

Một vùng nhiễu động nhiệt đới hình thành tại vị trí gần kinh tuyến 140°T đã phát triển thành áp thấp nhiệt đới Three-C vào ngày 6 tháng 10. Mặc cho nhiệt độ nước biển rất ấm, và độ đứt gió chỉ ở mức trung bình, áp thấp nhiệt đới đã di chuyển chậm về phía Tây mà không có bất kỳ sự tăng cường độ nào. Hệ thống tan vào ngày hôm sau. Trong lúc di chuyển về phía Tây với tốc độ ổn định, không khí khô và độ đứt gió đã cản trở quá trình phát triển của cơn bão, cho đến khi nó vượt đường đổi ngày quốc tế trong ngày 6 tháng 12. và di chuyển qua gần rạn san hô vòng Kwajalein với sức gió 120 dặm/giờ (190 km/giờ). Một thời gian sau, Paka đạt đến trạng thái siêu bão cấp 5. Paka đã di chuyển qua sát Guam trong ngày 17 với cấp độ siêu bão và gây tổn thất nghiêm trọng cho hòn đảo. Sau đó, cơn bão gặp phải một môi trường thù địch khiến cho nó tan hoàn toàn vào tối ngày 22 tháng 12.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Mùa bão Đông Bắc Thái Bình Dương 1997** là một mùa bão hoạt động rất mạnh, nguyên nhân bởi hiện tượng El Niño. Với hàng trăm người thiệt mạng cùng tổn thất hàng triệu USD,
**Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 1997** không có giới hạn chính thức, nó trải dài suốt năm, bắt đầu từ 1 tháng 1 và kết thúc vào 31 tháng 12. Tuy nhiên tháng
**Mùa bão Đông Bắc Thái Bình Dương 2015** được công nhận là mùa bão Đông Bắc Thái Bình Dương hoạt động mạnh thứ hai từng được ghi nhận; với kỷ lục 31 áp thấp nhiệt
**Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 1996** không có giới hạn chính thức; nó diễn ra trong suốt năm 1996, nhưng hầu hết các xoáy thuận nhiệt đới có xu hướng hình thành trên
**Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 1998** không có giới hạn chính thức, nhưng hầu hết các xoáy thuận nhiệt đới có xu hướng hình thành trên Tây Bắc Thái Bình Dương trong khoảng
**Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 2016** là sự kiện mà các xoáy thuận nhiệt đới hoạt động ở khu vực phía tây bắc của Thái Bình Dương. Mùa bão này kéo dài suốt
**Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 2017** là một sự kiện mà theo đó các xoáy thuận nhiệt đới hình thành ở vùng phía Tây Bắc của Thái Bình Dương trong năm 2017, chủ
thumb|Quỹ đạo của tất cả các xoáy thuận nhiệt đới Đông Bắc Thái Bình Dương cấp 5 trên khu vực phía Đông [[đường đổi ngày quốc tế tính đến thời điểm kết thúc năm 2018.]]
**Bão Oliwa** là một trong số kỷ lục 11 cơn siêu bão của mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 1997. Oliwa hình thành trên vùng Trung tâm Thái Bình Dương; khu vực phía Tây
**Bão lớn Linda**, ký hiệu **14E-1997**, là cơn bão mạnh nhất ở Đông Bắc Thái Bình Dương từng được ghi nhận vào thời điểm đó; với sức gió và áp suất xuống tới . 18
**Bão Fengshen** là cơn bão mạnh nhất trong Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương năm 2002. Nó phát triển vào ngày 13 tháng 7 từ máng gió mùa gần Quần đảo Marshall và nhanh
nhỏ **Bão Patricia** () là cơn bão mạnh thứ hai trong lịch sử nhân loại (sau Bão Tip) và mạnh nhất ở Tây bán cầu từng ghi nhận. Đồng thời, Patricia còn trở thành cơn
**Bão Joan** năm 1997 là cơn bão giữ được cường độ siêu bão trong thời gian dài nhất tại thời điểm đó, vận tốc gió tối đa duy trì một phút luôn giữ ở mức
**Bão Keith** là siêu bão thứ 10 trong tổng số kỷ lục 11 cơn siêu bão của mùa bão hoạt động mạnh bất thường trên Tây Bắc Thái Bình Dương trong năm 1997. Hình thành
**Bão Winnie**, còn được biết đến ở Philippines với tên gọi là Ibiang là siêu bão cuồng phong thứ tư của mùa bão năm 1997. Hình thành từ một vùng áp thấp lớn ở gần
**Bão nhiệt đới Linda**, được biết đến ở Philippines với tên gọi **Áp thấp nhiệt đới Openg**, được biết đến tại Việt Nam với tên gọi **cơn bão số 5** , là cơn bão thảm
**Bão Ivan**, được biết đến ở Philippines với tên gọi **Bão Narsing**, là một cơn bão rất mạnh cùng tồn tại song song với một cơn bão khác có cường độ tương tự trong tháng
thumb|Chỉ số dao động phương Nam chuỗi thời gian 1876–2023. **El Niño–Dao động phương Nam** (**ENSO**) là sự biến đổi có tính chu kỳ không đều của gió và nhiệt độ bề mặt biển trên
**Disney Networks Group Châu Á Thái Bình Dương** (trước đây là **Satellite Television Asian Region Limited** (tên thương mại từ 2001 là **Star TV**, cách điệu thành **STAR TV**, và sau đó là **Star** cho
**Thái Bình** là một tỉnh cũ ven biển thuộc vùng đồng bằng sông Hồng. Theo quy hoạch phát triển kinh tế, Thái Bình thuộc vùng duyên hải Bắc Bộ. Theo cuộc Tổng điều tra dân
**_Mặt trận Thái Bình Dương_** (tiếng Anh: **_The Pacific_**) là một bộ phim truyền hình ngắn tập về đề tài chiến tranh của Mỹ năm 2010 do HBO, Playtone và DreamWorks sản xuất, và được
**Bình Dương** là một tỉnh cũ thuộc vùng Đông Nam Bộ, Việt Nam. Ngày 12 tháng 6 năm 2025, tỉnh Bình Dương được sáp nhập vào Thành phố Hồ Chí Minh. Tỉnh lỵ của tỉnh
**Cá voi vây** (_Balaenoptera physalus_), còn gọi là **cá voi lưng xám**, là một loài động vật có vú sống ở biển thuộc phân bộ cá voi tấm sừng hàm. Chúng là loài cá voi
Cái tên **Ivan** từng được sử dụng để đặt tên cho ba xoáy thuận nhiệt đới ở Đại Tây Dương, một ở Tây Bắc Thái Bình Dương, một ở Tây Nam Ấn Độ Dương, và
|- | colspan="2" style="padding-bottom: 4px; font-size: 90%; text-align: center;" | Tập tin:EFEO Paris 1.jpg
Trụ sở chính của EFEO tại Paris |- | style="background: #C5D2AA;"|   | style="background: #DEE5D1;"|   |- |valign="top" style="text-align: left;"|****||École française
**Nhà hát Chèo Thái Bình** là đơn vị hoạt động nghệ thuật chèo chuyên nghiệp gồm có 2 đoàn nghệ thuật chèo hoạt động chủ yếu tại tỉnh Thái Bình. Nhà hát chèo Thái Bình
**Đài Phát thanh – Truyền hình Bình Dương** là một đài phát thanh và truyền hình trực thuộc Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Đài có trụ sở tại số 46 Đại
**Đài Bắc** (, Hán Việt: Đài Bắc thị; đọc theo _IPA: tʰǎipèi_ trong tiếng Phổ thông) là thủ đô của Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) và là thành phố trung tâm của một vùng
thumb|Đường đi của xoáy thuận nhiệt đới toàn cầu từ năm 1985 đến năm 2005, chỉ ra các khu vực mà xoáy thuận nhiệt đới thường phát triển **Sự hình thành xoáy thuận nhiệt đới**
**Gấu đen Bắc Mỹ** (danh pháp hai phần: **_Ursus americanus_**) là một loài gấu kích thước trung bình có nguồn gốc ở Bắc Mỹ. Nó là loài gấu nhỏ nhất và phổ biến nhất của
**Quần đảo Solomon** (tiếng Anh: **Solomon Islands**) là một quốc đảo của người Melanesia, nằm ở phía Đông Papua New Guinea, bao gồm gần một ngàn đảo nhỏ trải dài trên một diện tích khoảng
**Tokelau** (; trước đây được gọi là **Quần đảo Liên minh** (), và cho đến năm 1976 được gọi chính thức là **Quần đảo Tokelau**) là một lãnh thổ phụ thuộc của New Zealand nằm
[[Đảo Unalaska trong Quần đảo Aleut]] **Quần đảo Aleut** (có thể là từ tiếng Chukchi _aliat_ có nghĩa là "đảo") là một chuỗi đảo gồm hơn 300 đảo núi lửa tạo thành một vòng cung
Rạn san hô vòng Midway Điểm chiếu trực giao Midway trên địa cầu **Rạn san hô vòng Midway** (; còn gọi là **đảo Midway** hay **quần đảo Midway**; tiếng Hawaii: _Pihemanu Kauihelani_) là một rạn
**Bão Claudette** là cơn bão nhiệt đới thứ ba và là cơn bão đầu tiên của mùa bão Đại Tây Dương năm 2003. Một cơn bão Đại Tây Dương kéo dài vào tháng Bảy, bão
**Thái Lan**, gọi ngắn là **Thái**, quốc hiệu là **Vương quốc Thái Lan**, là một quốc gia ở Đông Nam Á, phía bắc giáp Lào và Myanmar, phía đông giáp Lào và Campuchia, phía nam
**Thái Nguyên** là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Bộ, Việt Nam. Trung tâm hành chính của tỉnh là phường Phan Đình Phùng, cách trung tâm Hà Nội khoảng 70 km. Năm 2025, hai tỉnh Thái
**Trung Hoa Dân quốc** () là đảo quốc và quốc gia có chủ quyền thuộc khu vực Đông Á. Ngày nay, do ảnh hưởng từ vị thế lãnh thổ cùng nhiều yếu tố chính trị
**Điện ảnh Thái Lan** khởi nguồn từ nền điện ảnh những ngày đầu, khi chuyến viếng thăm đến Bern, Thụy Sĩ của vua Chulalongkorn vào năm 1897 được François-Henri Lavancy-Clarke ghi hình lại. Bộ phim
**Đông Nam Á** (tiếng Anh: **Southeast Asia**, viết tắt: **SEA**) là tiểu vùng địa lý phía đông nam của châu Á, bao gồm các khu vực phía nam của Trung Quốc, phía đông nam của
Phân vùng bão và áp thấp nhiệt đới tại Việt Nam theo Quyết định 2901 năm 2016 của Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam **Việt Nam** là một quốc gia nằm ở khu
**Dừa** (_Cocos nucifera_) là một loài thực vật thân gỗ, thành viên thuộc họ Cau (Arecaceae) và là loài duy nhất còn sống thuộc chi _Cocos._ Dừa có mặt khắp nơi tại các vùng nhiệt
**Bắc Giang** là một tỉnh cũ thuộc trung du thuộc vùng Đông Bắc Bộ, Việt Nam. Đây là tỉnh nằm trong quy hoạch vùng thủ đô Hà Nội. Bắc Giang chiếm phần lớn diện tích
**Trần Đông** (chữ Hán: 陈东, 1086 – 1127), tự Thiếu Dương, người Đan Dương, Trấn Giang , nhân vật yêu nước cuối đời Bắc Tống. Ông là người lãnh đạo phong trào vận động của
**Tập Cận Bình** (giản thể: 习近平; phồn thể: 習近平; bính âm: _Xí Jìnpíng_; phát âm: [ɕǐ tɕînpʰǐŋ], sinh ngày 15 tháng 6 năm 1953) là một chính trị gia người Trung Quốc. Ông hiện đang
Dưới đây là danh sách tên các bão nhiệt đới nói riêng và xoáy thuận nhiệt đới nói chung. Có 7 khu vực có tên bão nhiệt đới. ## Sơ lược lịch sử Bão được
thumb|right|Hai người đồng tính nam hôn nhau trong một buổi diễu hành đồng tính. thumb|right|Biểu tượng đại diện cho người đồng tính nam được tạo nên từ hai biểu tượng của [[sao Hỏa lồng vào
**Trận Hồng Kông** (8-25 tháng 12 năm 1941), được biết đến với tên gọi là **Phòng thủ Hồng Kông** hay **Hồng Kông thất thủ** là một trong những trận đánh đầu tiên của Chiến tranh
**Đảo Macquarie** là một hòn đảo nằm ở tây nam Thái Bình Dương, giữa New Zealand và Nam Cực. Nó thuộc lãnh thổ của tiểu bang Tasmania của Úc kể từ năm 1900 và là
**Quần đảo Samoa** là một quần đảo có diện tích 3.030 km² ở trung tâm Nam Thái Bình Dương, là một phần của khu vực Polynesia. Dân số trên quần đảo này khoảng 250.000 người, sử