✨Quần đảo Aleut

Quần đảo Aleut

[[Đảo Unalaska trong Quần đảo Aleut]] Quần đảo Aleut (có thể là từ tiếng Chukchi aliat có nghĩa là "đảo") là một chuỗi đảo gồm hơn 300 đảo núi lửa tạo thành một vòng cung đảo trong Bắc Thái Bình Dương, chiếm một diện tích khoảng 6.821 dặm vuông Anh (17.666 km²) và kéo dài khoảng 1.200 dặm Anh (1.900 km) về phía tây từ Bán đảo Alaska về phía Bán đảo Kamchatka. Vượt qua kinh tuyến 180°, quần đảo này là phần cận tây nhất của Hoa Kỳ (và về kỹ thuật mà nói cũng là phần cận đông nhất; xem các cực điểm của Hoa Kỳ). Gần như tất cả quần đảo là bộ phận của tiểu bang Alaska và thường được xem là nằm trong vùng "Alaskan Bush" nhưng phần cuối cực tây là Quần đảo Komandorski xa xôi hẻo lánh, nhỏ và có liên hệ về mặt địa lý thì nằm trong lãnh thổ của Nga. Quần đảo có 57 núi lửa và nằm trong phần phía bắc của Vành đai lửa Thái Bình Dương. Xa lộ vùng biển Alaska chạy qua quần đảo.

Về địa thể, quần đảo này là một bộ phận riêng biệt của vùng bờ viền Thái Bình Dương rộng lớn hơn mà đến lượt bờ viền này là một bộ phận của phân vùng địa thể Hệ thống Núi Thái Bình Dương.

Địa lý

trái|Các núi lửa còn hoạt động của Quần đảo Aleut Quần đảo này được biết là Quần đảo Catherine trước năm 1867 gồm có năm nhóm đảo: Quần đảo Fox, Quần đảo Four Mountains, Quần đảo Andreanof, Quần đảo Rat và Quần đảo Near. Tất cả nằm trong vị trí giữa vĩ tuyến 52° và 55° Bắc, kinh tuyến 172° Đông và 163° Tây.

Trục của quần đảo này nơi gần đất liền Alaska có hướng quay về tây nam nhưng gần kinh tuyến 129 thì nó đổi hướng về phía tây bắc. Sự đổi hướng này tương xứng với một vòng cong gồm các vết nứt núi lửa mà góp phần hình thành các đảo này. Các chuỗi cong như thế được lập lại quanh Thái Bình Dương như được thấy tại Quần đảo Kuril, chuỗi quần đảo Nhật Bản và tại Philippines. Tất cả các vòng cung quần đảo này nằm ở rìa của Mảng kiến tạo Thái Bình Dương và trải qua nhiều hoạt động địa chấn, nhưng con người vẫn có thể sống được. Quần đảo Aleut nằm giữa hai mảng kiến tạo là Thái Bình Dương và Bắc Mỹ. Cao độ chung tại các quần đảo phía đông cao nhất và thấp nhất là ở phía tây. Dãy quần đảo này là một phần nối tiếp phía tây của dãy núi Aleutian trên đất liền.

Đa số các đảo này còn dấu tích núi lửa nguyên thủy, và có vô số chóp núi lửa trên phía bắc của chuỗi đảo. Một số trong các núi lửa này vẫn còn hoạt động. Tuy nhiên nhiều đảo không phải hoàn toàn là đảo núi lửa mà còn gồm có đá trầm tích và đá pha lê, và cũng có hổ phách và nền bằng than non. Các vùng duyên hải có đá và bị sóng bào mòn. Vùng đất gần biển rất nguy hiểm vì đất nhô lên ngay từ duyên hải lên thành các dãy núi cao và dốc.

Núi lửa Makushin cao 5.691 ft (1.735 mét) nằm trên Đảo Unalaska, không được thấy rõ từ bên trong thị trấn Unalaska mặc dù hơi nước bốc lên từ chóp hình nón của nó có thể được nhìn thấy trong một ngày bầu trời trong xanh (hiếm có). Cư dân của Unalaska chỉ cần leo lên một trong các ngọn đồi nhỏ hơn trong khu vực, thí dụ như Đỉnh Pyramid hay Núi Newhall là có thể nhìn thấy rõ chóp hình nón phủ tuyết của nó. Núi lửa Bogoslof và quần đảo Fire mà đã nhô lên từ dưới biển theo thứ tự vào năm 1796 và năm 1883 nằm cách Vịnh Unalaska khoảng 30 dặm Anh (48 km) về phía tây.

Khí hậu

Khí hậu của quần đảo là khí hậu đại dương có nhiệt độ ôn hòa khá giống nhau và mưa nhiều. Sương mù hầu như thường xuyên. Thời tiết mùa hè mát mẻ nhiều hơn Đông nam Alaska (Sitka) nhưng nhiệt độ mùa đông của quần đảo và vùng Bán đảo Alaska thì gần như rất giống nhau. Nhiệt độ trung bình hàng năm cho Unalaska, đảo đông dân nhất của nhóm đảo, là khoảng 38 °F (3,4 °C), khoảng 30 °F (−1,1 °C) vào tháng giêng và khoảng 52 °F (11,1 °C) vào tháng 8. Nhiệt độ cao nhất và thấp nhất được ghi nhận là 78 °F (26 °C) và 5 °F (−15 °C) theo thứ tự. Lượng mưa trung bình hàng năm là khoảng 80 in (2.030 mm). Thị trấn Unalaska có khoảng 250 ngày mưa mỗi năm và được cho rằng là một trong những nơi có mưa nhiều nhất trong lãnh thổ của Hoa Kỳ. Loại khí hậu này chỉ có thể so sánh với loại khí hậu của: Iceland, Tierra del Fuego, Bán đảo Alaska lân cận, Nam Georgia, Đảo Macquarie, Đảo Heard và Quần đảo McDonald.

Thực vật

Mùa trồng trọt kéo dài khoảng 135 ngày, từ đầu tháng năm cho đến cuối tháng 9 nhưng nông nghiệp chỉ hạn chế trồng một vài loại rau cải. Trừ một số cây liễu cằn cỗi, đa số vùng đất mênh mông của quần đảo không có cây cỏ bản xứ. Trên một số đảo như Adak và Amaknak, có một số cây ngành thông mọc, đó là những dấu tích còn lại của thời Nga làm chủ vùng đất này. Trong khi có các cây rất cao mọc trong nhiều vùng khí hậu lạnh trên thế giới, những cây thông mọc tại quần đảo này, có cây được ước tính già hai trăm năm tuổi, lại hiếm khi cao đến 10 ft. Nhiều cây chỉ cao dưới 5 ft. Lý do là vì các đảo này cũng giống như Quần đảo Falkland và các đảo khác nằm cùng vĩ độ gặp những cơn gió rất mạnh khiến các cây cao dễ bị thổi ngã.

Thay vì cây cối, quần đảo này được phủ đầy các loại cỏ và hoa.

Kinh tế

Trên các đảo ít có núi hơn, việc chăn nuôi cừu và tuần lộc đã từng được tin là thực tiễn. Trên các đảo gần Mũi Sand cũng có bò Bison. Chăn nuôi cừu dường như đã chết dần với việc giới thiệu sợi tổng hợp làm giảm giá trị của lông trừu. Trong thập niên 1980, có một số lạc đà không bướu được nuôi trên Unalaska. Ngày nay, nền kinh tế chủ yếu dựa vào đánh cá và sự hiện của quân sự Mỹ. Nông sản duy nhất là khoai tây. Gà được nuôi tại các trang trại có nhà che chống lạnh.

Nhân khẩu

Người dân bản xứ thường tự nhận mình là người Unangan, và hiện nay thường được đa số người không phải bản xứ gọi là người "Aleut".

Tiếng Aleut là một trong hai nhánh chính của nhóm tiếng Eskimo-Aleut. Nhóm tiếng này không được biết là có liên hệ với các ngôn ngữ khác hay không.

Theo điều tra dân số năm 2000, quần đảo có tổng số dân là 8.162 trong đó có 4.283 sống trong khu định cư chính Unalaska.

Tập tin:AleutianIslands.jpeg
Các đảo phía tây Quần đảo Aleut (bản đồ lãnh thổ Alaska năm 1916)

Đọc thêm bằng tiếng Anh

* Gibson, Daniel D., and G. Vernon Byrd. _Birds of the Aleutian Islands, Alaska_. Cambridge, Mass: Nuttall Ornthological Club, 2007. ISBN 978-0-943610-73-3 * Ivanov, Vi︠a︡cheslav Vsevolodovich. _The Russian Orthodox Church of Alaska and the Aleutian Islands and Its Relation to Native American Traditions-- An Attempt at a Multicultural Society, 1794-1912_. Washington, DC: Library of Congress, 1997. ISBN 0-16-048781-1 * Jochelson, Waldemar. _Archaeological Investigations in the Aleutian Islands_. Washington: Carnegie Institution of Washington, 1925.
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
[[Đảo Unalaska trong Quần đảo Aleut]] **Quần đảo Aleut** (có thể là từ tiếng Chukchi _aliat_ có nghĩa là "đảo") là một chuỗi đảo gồm hơn 300 đảo núi lửa tạo thành một vòng cung
**Chiến dịch quần đảo Aleut** là một chiến dịch quân sự tiến hành giữa Hoa Kỳ và Đế quốc Nhật Bản tại Quần đảo Aleut, Alaska, Hoa Kỳ diễn ra từ ngày 3 tháng 6
**Quần đảo Komandorski**, **quần đảo Komandorskie** (, _Komandorskiye ostrova_) hay **quần đảo Commander** (trong ) là một nhóm đảo trơ trụi cây, dân cư thưa thớt (khoảng 600 người trên diện tích ) trong biển
**Động đất quần đảo Aleut 1946** xảy ra gần quần đảo Aleut, Alaska vào ngày 1 tháng 4. Trận động đất có độ lớn 8,6 trên thang độ lớn mô men và cường độ VI
**Ngữ hệ Eskimo-Aleut** hoặc **Eskaleut** là ngữ hệ bản xứ tại Alaska, Bắc Canada, Nunavik, Nunatsiavut, Greenland và bán đảo Chukotka ở cực đông Siberia, Nga. Ngữ hệ này được chia làm hai nhánh, gồm
**_I-15_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã
**_I-5_** là chiếc tàu ngầm mang máy bay đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản và đã hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Là chiếc duy nhất trong phân lớp
**_I-6_** là một tàu ngầm tuần dương, là chiếc duy nhất thuộc phân lớp của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và có khả năng mang máy bay. Nhập biên chế năm 1935, _I-6_ đã
**_I-2_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
**_I-69_**, sau đổi tên thành **_I-169_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**Tiếng Aleut** (_Unangam Tunuu_), còn gọi là **tiếng Unangan**, **tiếng Unangas** hay **tiếng Unangax̂**, là một ngôn ngữ Eskimo–Aleut. Đây là ngôn ngữ của người Aleut (Unangax̂) sống tại quần đảo Aleut, quần đảo Pribilof,
thumb|Các núi lửa trên bán đảo Alaska thumb|Gorge in Valley of 10,000 Smokes right|thumb|Núi lửa Peulik và các núi lửa miệng rộng Ukinrek **Bán đảo Alaska** là một bán đảo kéo dài khoảng ra phía
**_I-3_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
**_I-7_** là một tàu ngầm tuần dương phân lớp bao gồm hai chiếc có khả năng mang máy bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó cùng với tàu chị em _I-8_ là những
**_I-56_**, sau đổi tên thành **_I-156_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1929. Trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-35_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-19_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-75_**, sau đổi tên thành **_I-175_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-34_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
Phi cơ [[B-17 Flying Fortress đang bay trên bầu trời châu Âu]] Các giới chức quân sự quan trọng của Mỹ tại châu Âu năm 1945 **Lịch sử quân sự Hoa Kỳ trong Chiến tranh
**_I-71_**, sau đổi tên thành **_I-171_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-31_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-26_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-4_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
**_I-36_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-1_** là một tàu ngầm lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu ngầm tuần dương
**_I-57_**, sau đổi tên thành **_I-157_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1929. Trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-9_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-17_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
Đảo nhỏ [[Pokonji Dol nằm trong biển Adriatic]] **Đảo** là phần đất được bao quanh hoàn toàn bởi nước nhưng không phải là lục địa; tuy vậy, không có kích thước chuẩn nào để phân
thumb|Mũi Cape Lutkes **Đảo Unimak** ( Khu vực này được quản lý bởi Cục cá và động vật hoang dã Hoa Kỳ. Hệ động vật tại đây là một phần của bán đảo Alaska, đảo
Rạn san hô vòng Midway Điểm chiếu trực giao Midway trên địa cầu **Rạn san hô vòng Midway** (; còn gọi là **đảo Midway** hay **quần đảo Midway**; tiếng Hawaii: _Pihemanu Kauihelani_) là một rạn
phải|nhỏ|300x300px|Nhân lực Hải quân Hoa Kỳ khảo sát Akutan Zero trên [[Đảo Akutan vào ngày 11 tháng 7 năm 1942]] **Akutan Zero** (hay còn được gọi là **Chiếc Zero của Koga** hoặc **Aleutian Zero**) là
**_I-68_**, sau đổi tên thành **_I-168_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã tham
**USS _Williamson_ (DD-244)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, được cải biến thành tàu tiếp liệu thủy phi cơ
**_Abukuma_** (tiếng Nhật: 阿武隈) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Nagara_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên của nó được đặt theo sông Abukuma tại khu vực Tōhoku của Nhật
**USS _Louisville_ (CA-28)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc thứ ba trong lớp _Northampton_, và là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Mỹ được đặt
**Lớp tàu tuần dương _Kuma**_ (tiếng Nhật: 球磨型軽巡洋艦; Kuma-gata keijunyōkan) bao gồm năm tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Lớp _Kuma_ được tiếp nối bởi lớp _Nagara_ rất tương
**USS _Watts_ (DD-567)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _William D. Porter_ (DD-579)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải
**USS _Hughes_ (DD-410)** là một tàu khu trục lớp _Sims_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai; nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân
**Curtiss P-40** là kiểu máy bay tiêm kích và máy bay tấn công mặt đất của Mỹ bay lần đầu vào năm 1938. Nó có 1 động cơ, một chỗ ngồi, cấu trúc toàn kim
**_I-24_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm thứ hai của
**USS _Edward C. Daly_ (DE-17)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Evarts_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất
**USS _Kane_ (DD-235/APD-18)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế
**USS _Sicard_ (DD-346/DM-21/AG-100)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân
**_Tama_** (tiếng Nhật: 多摩) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Kuma_ từng hoạt động cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên của nó được
**USS _Monaghan_ (DD-354)** là một tàu khu trục lớp _Farragut_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân
**_I-184_** (nguyên mang tên **_I-84_**) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1943. Nó đã hoạt động trong Chiến