✨Mã Trung (Thục Hán)

Mã Trung (Thục Hán)

Mã Trung (chữ Hán: 馬忠; bính âm: Ma Zhong; ?-249), tên tự là Đức Tín (德信), là một viên tướng nhà Thục Hán thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Mã Trung theo Gia Cát Lượng trong cuộc Nam chinh của quân Thục và lập nhiều chiến công, trở thành vị tướng cai quản vùng này ổn định trong nhiều năm.

Sự nghiệp

Thời Lưu Bị

Mã Trung người quận Ba Tây. Thuở nhỏ, ông được nhà ngoại nuôi dưỡng, mang tên là Hồ Đốc.

Vào cuối niên hiệu Kiến An (196-220) thời Hán Hiến Đế, ông được tiến cử làm Hiếu liêm, rồi thăng làm Huyện trưởng Hán Xương (thuộc quận Ba Tây) dưới chính quyền Lưu Bị.

Năm 222, Hán Chiêu Liệt Đế Lưu Bị bại trận ở Di Lăng chạy về phía tây, Thái thú Ba Tây là Diên Chi phái ông mang 5000 quân mã đến chi viện cho Lưu Bị.

Lưu Bị lui về thành Bạch Đế, ở trong cung Vĩnh An, có Hồ Đốc trấn thủ nên tạm yên tâm không bị quân Đông Ngô truy kích. Lưu Bị đàm đạo với Hồ Đốc xong rất vui lòng, cho rằng nước Thục không thiếu người hiền tài.

Thời Lưu Thiện

Sau đó Hồ Đốc lấy lại họ Mã, đổi tên là Trung. Năm 223, Lưu Bị mất, Hậu chủ Lưu Thiện lên thay, Gia Cát Lượng làm thừa tướng điều hành triều chính. Mã Trung được thăng làm Môn hạ đốc.

Năm 225, ông theo Gia Cát Lượng tiến hành bình định Nam Trung dẹp lực lượng theo Đông Ngô phản Thục Hán của Ung Khải, Chu Bao và Mạnh Hoạch. Chiến dịch kết thúc, Mã Trung nhờ lập công lao, được phong làm thái thú quận Tường Kha, ở lại trấn thủ vùng Nam Trung để ổn định lòng dân địa phương. Sau mấy năm, người Nam Trung rất tâm phục triều Thục Hán.

Năm 230, Mã Trung được lệnh về bắc, ông được bổ nhiệm làm Tham quân phủ Thừa tướng Gia Cát Lượng, cùng Tưởng Uyển trấn thủ Thành Đô trong khi Gia Cát Lượng đi đánh Tào Ngụy.

Năm 231, Gia Cát Lượng lại ra quân đánh Ngụy, Mã Trung được phong làm chỉ huy một cánh quân. Đó là lần đầu tiên ông tham gia Bắc phạt.

Năm 233, một cường hào ở Nam Trung là Lưu Trụ nổi dậy chống Thục Hán. Tướng Thục Hán là Trương Dực xử lý tình hình không thỏa đáng, các quận phía nam lại hỗn loạn. Gia Cát Lượng lại phái Mã Trung đi thay Trương Dực. Ông nhanh chóng ổn định lại tình hình. Nhờ lập công, Mã Trung được phong làm Phấn uy tướng quân, Bắc Dương đình hầu.

Mã Trung coi trọng việc dùng chính trị quản lý vùng Nam Trung, không ưa dùng quân sự. Do đó vùng Nam Trung lại được yên ổn trong thời gian khá dài.

Dòng họ

Sau khi ông mất, con là Mã Tu nối dõi. Người con thứ của ông là Mã Khôi sinh ra cháu là Mã Nghĩa. Mã Nghĩa sau này làm quan cho nhà Tấn, giữ chức Thái thú Kiến Ninh (quận thuộc Ích châu, nước Thục Hán cũ).

Nhận định

Mã Trung được đánh giá là người khoan hòa độ lượng, có bực tức không thể hiện ra mặt, xử sự quyết đoán, ân uy đều thích đáng. Dân chúng vùng Nam Trung vừa nể sợ vừa cảm mến ông.

Trong Tam Quốc diễn nghĩa

Bình Nam Man

Trong tác phẩm Tam Quốc diễn nghĩa, Mã Trung là tướng quân theo Gia Cát Lượng Nam Chinh tấn công người Man ở vùng Nam Trung do Man Vương Mạnh Hoạch cầm đầu.

Trong trận đầu, Mã Trung cùng Vương Bình xuất trận, Vương Bình ra mé tả, Mã Trung ra mé hữu nghênh địch thực chất, Vương Bình, Mã Trung chỉ là đi tiếp ứng. Vương Bình, Mã Trung cùng tiến quân. Trong trận đầu, Mã Trung là người chiếm được trại đối phương trước Triệu Vân.

Sau đó khi Mạnh Ưu đến trá hàng, Gia Cát Lượng gọi Ngụy Diên, Vương Bình, Mã Trung, Quan Sách mỗi người dặn mẹo mực vài câu. Sau đó Mã Trung cùng các tướng hợp lực bắt quân Man lần thứ hai. Trong trận thứ ba, Mã Trung cùng Vương Bình được Gia Cát Lượng cho lĩnh kế xuất quân đi trước, chủ yếu là nghi binh.

Trong trận thứ ba, tướng của quân Man là Chúc Dung phu nhân xuất trận, Trương Ngực bị đánh bại, Mã Trung vội xông ra cứu, quân Man lại xô cả vào vây bọc Mã Trung. Mã Trung hăm hở xốc tới đánh Chúc Dong phu nhân. Quân Man quăng dây ra giật chân ngựa, Mã Trung ngã và bị bắt. Chúc Dong giải cả hai tướng về động ra mắt chồng. Sau đó Chúc Dong phu nhân ra trận bị quân Thục bắt, Gia Cát Lượng sai người sang trại Mạnh Hoạch xin đem phu nhân đánh đổi hai tướng Mã Trung và Trương Ngực.

Trong trận thứ tư, Đái Lai động chúa trá hàng, Gia Cát Lượng biết được, sai Trương Ngực, Mã Trung dẫn hai nghìn quân tinh tráng phục sẵn hai bên hành lang, rồi sai tướng mở cửa cho quân địch vào rồi bắt hết.

Trong trận cuối cùng đấu với quân của Ngột Đột Cốt, Trương Ngực, Mã Trung dẫn chừng nghìn hàng binh dụ quân Ngột Đột Cốt và Mạnh Hoạch. Sau khi Mạnh Hoạch trúng bẫy, Trương Ngực, Mã Trung hai mặt đổ ra bắt sống Mạnh Hoạch.

Bắc phạt

Sau đó Mã Trung được phong làm hữu quân, làm tướng trong cuộc Bắc phạt của Gia Cát Lượng. Trong lần tấn công ải Trần Thương, Khổng Minh sai sai Mã Trung, Trương Ngực mỗi người dẫn năm nghìn quân vây bọc mặt ngoài, để trong ngoài dồn vào mà đánh. Trương Ngực, Mã Trung dẫn quân đổ ra vây bọc quân Ngụy vào giữa trận, Mã Đại dẫn quân từ chỗ lửa sáng đánh lại. Quân Ngụy phải rút lui.

Trong chiến dịch thứ 3, tướng Ngụy là Trương Cáp, Đái Lăng dẫn binh kéo đến rất mạnh. Mã Trung, Trương Dực, Ngô Ý, Ngô Ban bốn tướng đón đánh theo kế của Khổng Minh, đánh lui Trương Cáp, Đái Lăng.

Trong lần xuất quân thứ 4, Mã Trung cùng các tướng cầm quân ra hội tại núi Kỳ Sơn. Khổng Minh gọi Mã Trung, Trương Ngực đến dặn rằng men theo con đường nhỏ trong núi, ngày phục đêm đi, ra tắt mé hữu núi Kỳ Sơn, đốt lửa lên làm hiệu, hội nhau với Mã Đại, Vương Bình, để cướp trại Tào Chân. Tào Chân bị trúng bẫy, Mã Đại, Vương Bình từ mặt sau đánh đến, Mã Trung, Trương Ngực cũng dẫn quân kéo lại. Quân Ngụy bại trận.

Trong lần xuất chinh thứ 5, Khổng Minh cho Khương Duy, Ngụy Diên mỗi người dẫn hai nghìn quân phục ở góc đông nam và tây bắc sai Mã Đại, Mã Trung mỗi người dẫn hai nghìn quân phục ở góc tây nam và đông bắc, cùng phối hợp đánh bại quân Ngụy. Khi quân Thục hết lương rút về, Khổng Minh sai Dương Nghi, Mã Trung dẫn một vạn tay cung nỏ đi mai phục trước ở hai bên đường Mộc Môn núi Kiếm Các. Quân Thục đã phục kích thành công, giết được tướng Ngụy là Trương Cáp.

Lần xuất quân thứ 6, Mã Trung được Khổng Minh sai đi cùng Khương Duy tấn công vào Vị Thủy. Tướng Ngụy là Tần Lãng bị phục kích, mé tả có Vương Bình, Trương Ngực, mé hữu có Mã Đại, Mã Trung, hai mặt đổ lại. Tần Lãng tử trận. Sau đó Mã Trung được cử đi cùng Mã Đại dẫn hai nghìn quân đến Vị Nam khởi sự đánh nhau. Tuy nhiên quân Thục sau đó phải rút về vì thiếu lương thảo.

:Sử sách ghi nhận Mã Trung chỉ tham gia Bắc phạt với Gia Cát Lượng từ năm 231 và đó là lần duy nhất ông tham chiến ở chiến trường này. Hoạt động chủ yếu trong đời chinh chiến của Mã Trung là vùng Nam Trung.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Mã Trung** (chữ Hán: 馬忠; bính âm: Ma Zhong; ?-249), tên tự là **Đức Tín** (德信), là một viên tướng nhà Thục Hán thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Mã Trung theo Gia
**Quý Hán** (季漢; 221–263), thường gọi là **Thục Hán** (蜀漢), quốc hiệu chính thức là **Hán** (漢), còn bị gọi theo nghĩa miệt thị là **Thục** (蜀), là một trong ba quốc gia trong thời
**Quan hệ La Mã – Trung Quốc** là các tiếp xúc chủ yếu gián tiếp, quan hệ mậu dịch, luồng thông tin và các lữ khách đi lại không thường xuyên giữa đế quốc La
**Cơ quan Tình báo Quốc gia** (**NIS**; - Quốc gia Tình báo Viện, Quốc Tình Viện) là cơ quan tình báo cấp quốc gia của Hàn Quốc. Cơ quan này được chính thức thành lập
**Triệu Trung** (chữ Hán: 趙忠; ? - 189) là hoạn quan nhà Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc và một trong mười quan thường thị. Ông dự triều chính từ thời Hán Hoàn Đế
**Mã Trung** (chữ Hán: 馬忠; bính âm: Ma Zhong) là một viên tướng phục vụ dưới quyền lãnh chúa Tôn Quyền thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Trong sử sách Sử sách
**Trương Nam** (; ? – 222), tự **Văn Tiến** (文進), là tướng lĩnh nhà Quý Hán thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Không rõ quê quán của Trương Nam. Năm
Trong tiếng Việt, **Mã Trung** (chữ Hán: 馬忠; bính âm: Ma Zhong) có thể là một trong hai vị trướng trùng tên thời Tam Quốc: * **Mã Trung**, bộ tướng của Phan Chương nước Đông
**Mã Siêu** (chữ Hán: 馬超, bính âm: Mǎ Chāo, 176-222), tự **Mạnh Khởi** (孟起), là một võ tướng cuối thời Đông Hán, đầu đời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông mang trong mình
**Hàn Tín** (; 230 TCN – 196 TCN), thường gọi theo tước hiệu là **Hoài Âm hầu** (淮陰候), là một danh tướng của nhà Hán được người đời sau ca ngợi là Binh Tiên với
**Long Trung đối sách** (隆中對, Long Trung đối) là tên một chiến lược quân sự do Gia Cát Lượng đề ra thời Tam Quốc, chiến lược này được coi là nền tảng để Lưu Bị
**Minh Đức Mã hoàng hậu** (chữ Hán: 明德馬皇后; ? - 9 tháng 7, 79), hay thường gọi **Minh Đức hoàng thái hậu** (明德皇太后), **Đông Hán Minh Đức Mã hoàng hậu** (東漢明德馬皇后), **Đông Hán Mã thái
**Thịt nướng Hàn Quốc** (tiếng Hàn: 고기구이/_gogi-gui_) hay còn biết đến với thương hiệu **Korean Barbecue** (K-BBQ) đề cập đến phương pháp phổ biến trong ẩm thực Hàn Quốc đối với món thịt nướng (BBQ),
**Trần Thức** (; ? - ?) là tướng lĩnh nhà Thục Hán thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Không rõ quê quán, hành trạng ban đầu của Trần Thức, chỉ
**Mã Đại** (馬岱) (180-255) tự **Bá Chiêm** (伯 瞻). Ông là một vị tướng của nước Thục trong thời kỳ Tam Quốc ở Trung Quốc. Trước đó, Mã Đại là một tướng dưới quyền của
**Hoàng Trung** (chữ Hán: 黄忠, bính âm: Huáng Zhōng; (?-220), tự **Hán Thăng** (漢升), là một vị tướng cuối thời Đông Hán, đầu thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông nổi tiếng với
**Mã Tốc** (chữ Hán: 馬謖; Phiên âm: Ma Su; 190-228) hay còn gọi là **Mã Tắc**, tự **Ấu Thường** (幼常), một trong **Mã Thị Ngũ Thường** (馬氏五常), là tướng nhà Thục Hán thời Tam Quốc
nhỏ|Hình 1: Sơ đồ tóm tắt tổng hợp mRNA ở nhân thực. Một [[lô-cut gen ở nhiễm sắc thể (màu vàng) là một đoạn DNA gồm nhiều đoạn mã hoá (intrôn)]] **Phiên mã nhân thực**
**Sa Ma Kha** (chữ Hán: 沙摩柯; ?-222) là thủ lĩnh của bộ lạc Ngũ Khê quận Vũ Lăng thuộc Kinh Châu trong thời kỳ Tam Quốc của lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Sa
nhỏ|phải|Tượng Mã Lương **Mã Lương** (186 - 222) (Phiên âm: Ma Liang); tên tự là **Quý Thường** (季常) và được gọi bằng biệt danh là _Bạch mi_ (白眉) tức lông mày trắng, là một quân
## Lịch sử Tây Hán ### Cao Đế khai quốc Ba tháng đầu tiên sau cái chết của Tần Thủy Hoàng tại Sa Khâu, các cuộc nổi dậy của nông dân, tù nhân, binh sĩ
**Nhà Hán** là hoàng triều thứ hai trong lịch sử Trung Quốc, do thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân Lưu Bang thành lập và được cai trị bởi gia tộc họ Lưu. Tiếp nối nhà
**Đại Hàn Dân Quốc**, gọi tắt là **Hàn Quốc**, là một quốc gia ở Đông Á; cấu thành nửa phía nam bán đảo Triều Tiên và ngăn cách với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
**Hán Quang Vũ Đế** (chữ Hán: 漢光武帝; 15 tháng 1, 5 TCN – 29 tháng 3, 57), hay còn gọi **Hán Thế Tổ** (漢世祖), húy **Lưu Tú** (劉秀), biểu tự **Văn Thúc** (文叔), là vị
**Triều đại trong lịch sử Trung Quốc**, hay **triều đại Trung Quốc**, ý chỉ các chế độ quân chủ thế tập cai trị Trung Quốc trong phần lớn chiều dài lịch sử nước này. Kể
thumb|Toàn cảnh Hàn Lâm viện thời [[Khang Hi.]] :_Bài viết này nói về một cơ quan trong nhà nước phong kiến Á Đông thời xưa. Để tìm hiểu về các cơ quan học thuật nghiên
**Tư Mã Thiên** ( hoặc ), biểu tự **Tử Trường** (), là một nhà sử học Trung Quốc sống vào đầu thời nhà Hán (206 TCN220). Ông được coi là cha đẻ của ngành sử
upright=1.2|nhỏ|Năm bước trong quá trình làm giấy, được [[Thái Luân phát minh vào năm 105, thời Đông Hán]] Triều đại nhà Hán (206 TCN - 220) thời cổ Trung Hoa, chia ra làm hai giai
thumb|right|Trung Quốc thumb|[[Cờ năm màu (Ngũ sắc kỳ 五色旗), biểu thị khái niệm Ngũ tộc cộng hòa. ]] thumb|[[Lương Khải Siêu, người đưa ra khái niệm Dân tộc Trung Hoa. ]] [[Vạn Lý Trường Thành,
**Lịch sử Trung Quốc** đề cập đến Trung Hoa, 1 trong 4 nền văn minh cổ nhất thế giới, bắt nguồn từ lưu vực phì nhiêu của hai con sông: Hoàng Hà (bình nguyên Hoa
**Hai Bà Trưng** (? – 5 tháng 3 năm 43) là tên chỉ chung hai chị em Trưng Trắc (徵側) và Trưng Nhị (徵貳), hai người phụ nữ được đánh giá là anh hùng dân
**Hán Vũ Đế** (chữ Hán: 漢武帝; 31 tháng 7, 156 TCN - 29 tháng 3, 87 TCN), tên thật **Lưu Triệt** (劉徹), biểu tự **Thông** (通), là vị hoàng đế thứ bảy của nhà Hán
**Trương Hiến Trung** (chữ Hán: 张献忠, 01 tháng 1, 1600 – 02 tháng 1, 1647), tên tự là **Bỉnh Trung**, hiệu là **Kính Hiên**, người bảo Giản, huyện Liễu Thụ, vệ Duyên An, là lãnh
**Trung Quốc** hiện là quốc gia có dân số đông thứ hai trên thế giới. Từ thời Chu Tuyên Vương, đã có điều tra nhân khẩu tại Trung Quốc, có thống kê nhân khẩu chi
**_Ký sinh trùng_** (tiếng Hàn: 기생충, Hán tự: 寄生蟲, RR: _Gisaengchung_, tiếng Anh: _Parasite_) là một bộ phim điện ảnh Hàn Quốc thuộc thể loại hài đengiật gânchính kịch công chiếu năm 2019 do Bong
**Âm Hán Việt** (音漢越) là thuật ngữ chỉ các âm đọc của chữ Hán được người nói tiếng Việt xem là âm đọc chuẩn dùng để đọc chữ Hán trong văn bản tiếng Hán vào
**Hàn Phi** (chữ Hán: 韓非M; 280 TCN 233 TCN) là học giả nổi tiếng Trung Quốc cuối thời Chiến Quốc theo trường phái Pháp gia, tác giả sách _Hàn Phi tử_. ## Tiểu sử Hàn
**Mã Đằng** (chữ Hán phồn thể: 馬騰, chữ Hán giản thể: 马腾; 154-212), tên tự là **Thọ Thành** (寿成), là một tướng lĩnh và chư hầu quân phiệt vào cuối thời nhà Đông Hán trong
**Ẩm thực Triều Tiên** là truyền thống nấu ăn thông thường và cách thức chế biến thành nghệ thuật ẩm thực Triều Tiên. Ẩm thực Triều Tiên đã phát triển qua nhiều thế kỷ thay
**Hà Nam** (), là một tỉnh ở miền trung của Trung Quốc. Tên gọi tắt là _Dự_ (豫), đặt tên theo Dự châu, một châu thời Hán. Tên gọi Hà Nam có nghĩa là _phía
**Hán Hiến Đế** (Giản thể: 汉献帝; phồn thể: 漢獻帝; 2 tháng 4 năm 181 - 21 tháng 4 năm 234), tên thật là **Lưu Hiệp** (劉協), tự là **Bá Hòa** (伯和), là vị Hoàng đế
**_Đông Quán Hán ký_** (chữ Hán: 东观汉记), người đời Hán gọi là _Đông Quán ký_, là bộ sách theo thể kỷ truyện ghi lại lịch sử đời Đông Hán, từ thời Hán Quang Vũ Đế
Dưới đây là danh sách ghi nhận về những cuộc nhường ngôi trong lịch sử Trung Quốc: ## Tự nguyện nhường ngôi ### Nhường ngôi nhưng vẫn giữ quyền nhiếp chính # Năm 299 TCN,
Trường hợp đầu tiên được xác nhận về đại dịch bệnh virus corona 2019 (COVID-19) tại Ma Cao được công bố vào ngày 22 tháng 1 năm 2020. Ngày 4 tháng 7 năm 2022, Ma
**Kinh tế Hàn Quốc** là một nền kinh tế hỗn hợp phát triển cao được đặc trưng bởi những tập đoàn sở hữu bởi các gia đình giàu có được gọi là Chaebol. Hàn Quốc
**Chữ Hán**, còn gọi là **Hán tự**, **Hán văn****,** **chữ nho**, là loại văn tự ngữ tố - âm tiết ra đời ở Trung Quốc vào thiên niên kỷ thứ hai trước Công nguyên. Ngôn
**Hồ Nguyên Trừng** (chữ Hán: 胡元澄 1374–1446) biểu tự **Mạnh Nguyên** (孟源), hiệu **Nam Ông** (南翁), sau đổi tên thành **Lê Trừng (黎澄)** là một nhà chính trị, quân sự, tôn thất hoàng gia Đại
**Hán Minh Đế** (chữ Hán: 漢明帝; 15 tháng 6, 28 – 5 tháng 9, 75), húy **Lưu Trang** (劉莊), cũng gọi **Hán Hiển Tông** (漢顯宗), là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Đông Hán,
So sánh GDP TQ **Nền kinh tế của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa** là một nền kinh tế đang phát triển định hướng thị trường kết hợp kinh tế kế hoạch thông qua các
**Tư Mã Chiêu** (chữ Hán: 司馬昭; 211 – 6 tháng 9, 265), biểu tự **Tử Thượng** (子上), là một chính trị gia, quân sự gia, một quyền thần trứ danh thời kì cuối của nhà