✨Lý Tục Tân

Lý Tục Tân

Lý Tục Tân (chữ Hán: 李续宾, 1818 – 1858), tự Địch Am, người Tương Hương, Hồ Nam, tướng lãnh Tương quân nhà Thanh. Ông nổi danh là một viên kiêu tướng, đã dành trọn sự nghiệp nhằm trấn áp khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc.

Khởi đầu binh nghiệp

Tục Tân vốn là cống sanh, sức lực hơn người, giỏi cưỡi ngựa bắn cung. Ông theo học thầy La Trạch Nam, rất ham học sách. Đầu thời Hàm Phong, Trạch Nam mộ hương dũng, gia nhập quân Tương, chống lại nghĩa quân Thái Bình Thiên Quốc, Tục Tân nghe lời cha, đi theo giúp thầy, tham gia bình định nghĩa quân ở đông bộ Quảng Tây. Năm thứ 3 (1853), cánh quân Tương của Trạch Nam cứu viện Giang Tây, ông được nắm Hữu doanh. Trạch Nam đánh trận nào cũng có Tục Tân giúp rập. Hai thầy trò quay về Hồ Nam, đồn trú Hành Châu (nay là Hành Dương), giành lại Vĩnh Hưng.

Nổi danh Đại Kiều

Mùa hạ năm thứ 4 (1854), Tục Tân theo Trạch Nam về Nhạc Châu (nay là Nhạc Dương), đưa gần ngàn quân Tương đại chiến ở Đại Kiều. Tục Tân soái vài kỵ binh nấp bên sườn núi, quân Thái Bình đến vẫn không động, đợi quân đội tập hợp xong, tự mình xông ra tấn công, chém đầu mục, đoạt cờ hiệu của nghĩa quân, đuổi theo lên phía bắc hơn 10 dặm. Hôm sau, chủ tướng quan quân là Tháp Tề Bố đến chiến trường, khâm phục tài vũ dũng của ông, nhờ vậy mà nổi danh. Sau nhiều tuần giao chiến, Tục Tân suy đoán nghĩa quân đã cạn lương, đề nghị công phá đồn lũy của đối phương, Tháp Tề Bố nghe theo. Gặp lúc mưa gió, quan quân hăng hái tiến đánh, liên tiếp phá hủy đồn lũy của quân Thái Bình, buộc nghĩa quân bỏ chạy khỏi Nhạc Châu. Luận công, được thăng hàm Tri huyện. Tục Tân theo Trạch Nam hạ Sùng Dương, Hàm Ninh; quay về Vũ Xương, đại chiến ở Hoa Viên, gấp phá doanh trại nghĩa quân ở Niêm Ngư Sáo; đều lập công cao nhất. Giành lại Vũ Hán, được thăng làm Trực Lệ Châu tri châu, ban Hoa linh. Quan quân tiến đánh Điền Gia Trấn, nghĩa quân thủy lực có mấy vạn, trong khi Tháp Tề Bố đang bị ngăn lại ở Phú Trì Khẩu, thì quân Tương và quân Đoàn luyện chỉ có gần 2600 người, đều nản chí, Tục Tân tự tay đâm chết 3 kẻ đào ngũ, lòng quân mới vững trở lại. Đôi bên đại chiến ở Bán Bích Sơn, quan quân giết vài ngàn kẻ địch, đốt sào huyệt của nghĩa quân, rồi bình định Điền Gia Trấn. Tục Tân được thăng hàm Tri phủ, ban hiệu Chí Dũng Ba đồ lỗ; rồi được thụ chức An Khánh tri phủ.

Trải chiếu Tiểu Trì

Tục Tân tiếp tục theo La Trạch Nam, Tháp Tề Bố giành lại Quảng Tế (nay là huyện cấp thị Vũ Huyệt), Hoàng Mai, phá nghĩa quân ở Địch Cảng, Khổng Lũng, trận nào cũng làm tiền phong. Quan quân quay về Cửu Giang, thành Cửu Giang kiên cố, nghĩa quân đông đảo, quan quân không đánh nổi. Chư tướng bàn nhau chia quân đi tiễu Hồ Khẩu, Mai Gia Châu; Tục Tân theo Trạch Nam đóng đồn ở Khôi Sơn. Tháng 12 ÂL, thủy quân triều đình bị nghĩa quân chặn đứng ở hồ Bành Lễ, Tục Tân bực tức, xin với Tằng Quốc Phiên, tự soái 2000 quân vượt Trường Giang đánh Tiểu Trì Khẩu; Tháp Tề Bố soái 20 người cùng đi. Tháp Tề Bố và Tục Tân cậy mình vũ dũng, áp sát trận địa của nghĩa quân, trải chiếu mà ngồi, tên đạn như mưa vẫn không coi ra gì, rồi bất ngờ xông lên tấn công, ngang dọc đánh giết, xem vậy là thường. Lúc này quan quân quá ít, đánh cả ngày không có kết quả, đến chiều đành thu đội, thì Tháp Tề Bố mất tích; Tục Tân muốn vượt sông để tìm, nhưng Tháp Tề Bố đã tự trở về được.

Giành lại Vũ Xương

Mùa xuân năm thứ 5 (1855), nghĩa quân Thái Bình từ Giang Ninh ngược dòng, tái chiếm Vũ Xương. Tăng Quốc Phiên dừng lại ở Giang Tây, Tục Tân theo Trạch Nam đến hội quân. Hai thầy trò được phân phó đi đông bộ Giang Tây đánh tiễu, liên tiếp giành lại Dặc Dương, Quảng Tín, Đức Hưng, Nghĩa Ninh, Tục Tân được ký danh làm Đạo viên . Mùa hạ năm ấy, quan quân về cứu viện Hồ Bắc, hạ Thông Thành, Sùng Dương, hai thầy trò được chia một cánh quân đi Dương Lâu Động. Kế hoạch của hai thầy trò là nghĩa quân từ xa kéo đến ắt muốn đánh nhanh, vậy hãy kiên thủ mà đợi. Hôm sau nghĩa quân kéo đến, đôi bên giằng co đến chiếu, hai thầy trò thấy quân Thái Bình có ý mỏi mệt, bèn tiến hành đột kích, đánh tan nghĩa quân. Họ giành lại Bồ Kỳ (nay thuộc Xích Bích), Hàm Ninh, Tục Tân được gia hàm Diêm vận sứ. Tháng 11 ÂL, quan quân tiến đánh Vũ Xương, phá lũy quân Thái Bình ở Đường Giác, đánh bại nghĩa quân ở Diêu Loan, đạp bằng tất cả đồn lũy bên ngoài thành. Tháng 2 ÂL năm thứ 6 (1856), Trạch Nam trúng đạn, tử thương ở trong quân, lòng người bối rối, nghĩa quân lại tăng cường dựng lũy kháng cự. Tục Tân được tuần phủ Hồ Lâm Dực tâu xin cho thay lãnh quân đội, sĩ khí được chấn hưng; ông lập tức làm cỏ các lũy mới dựng, liên tiếp đánh phá các cánh nghĩa quân từ trong thành chạy ra ở Tái Hồ Đê, Tiểu Quy Sơn, Song Phượng Sơn. Tháng 7 ÂL, 7, 8 vạn nghĩa quân từ các lộ Giang Tây, Giang Nam do Thạch Đạt Khai chỉ huy đến cứu thành, trong ngoài phối hợp tấn công quan quân. Tục Tân ở Lỗ Gia Cảng chống quân Thái Bình, trong một tuần (10 ngày) giao chiến hơn 20 trận lớn nhỏ, thả đi hơn vạn người bị ép gia nhập nghĩa quân, phá hơn 20 lũy, được gia hàm Bố chánh sứ. Nghĩa quân đóng chặt cửa thành không ra, quan quân bèn khơi hào dẫn nước Trường Giang rót vào, trường kỳ vây khốn. Tháng 11 ÂL, hạ Vũ Xương, được ký danh làm Án sát sứ.

Phá sập Cửu Giang

Tục Tân vượt Trường Giang hạ Hoàng Châu, liên tiếp giành lại Đại Dã, Hưng Quốc, nhằm vào Cửu Giang. Tướng giữ Cửu Giang là Lâm Khải Vinh kiên thủ. Tục Tân lại dùng cách đánh Vũ Xương, đào con hào hơn 30 dặm, đến tháng 3 ÂL năm thứ 7 (1857) thì hoàn thành. Nghĩa quân Hồ Khẩu, An Khánh đến cứu, Tục Tân đều đẩy lui. Tháng 6 ÂL, nghĩa quân xâm phạm Kỳ Châu, Hoàng Mai, Tục Tân vượt Trường Giang đón đánh ở Đồng Tư Bài thuộc Quảng Tế, đại phá quân Thái Bình. Tục Tân hiệp với thủy quân đánh Tiểu Trì Khẩu, phá hủy thành này. Quan quân nhận xét nghĩa quân lấy Hồ Khẩu hợp với Cửu Giang thành thế ỷ giốc, nên vào tháng 9, Tục Tân lệnh cho em trai Lý Tục Nghi đánh Mai Gia Châu, tự mình soái quân đánh tiếng là đi Túc Tùng, ngầm phục ở hậu sơn của Hồ Khẩu. Thủy quân triều đình cũng đến, chia ra tấn công, nghĩa quân dốc hết tinh nhuệ ra chống lại. Tục Tân soái sĩ tốt vất vả trèo lên đỉnh núi, từ trên đánh xuống, diệt trọn nghĩa quân. Quan quân hạ được thành huyện Hồ Khẩu, nghĩa quân ở Mai Gia Châu cũng bỏ chạy, Tục Tân thừa thắng đánh hạ Bành Trạch cùng Tiểu Cô Phục. Sau khi báo tiệp, được thụ chức Chiết Giang bố chính sứ. Vì thế thành Cửu Giang bị cô lập, đến tháng 4 năm thứ 8 (1858), quan quân dùng địa lôi làm sập hơn trăm trượng tường thành, bắc thang trèo lên, giết hơn vạn nghĩa quân, bắt sống Lâm Khải Vinh cùng bọn Lý Hưng Long để làm tội. Bình xong Cửu Giang, được gia hàm Tuần phủ, ban Hoàng mã quái, có quyền dâng riêng tấu triệp lên triều đình.

Tử trận Tam Hà

Tục Tân hạ xong Cửu Giang, xin mượn tiếng thăm hỏi thân nhân, để đi Hồ Bắc; tướng Thái Bình là Trần Ngọc Thành hạ Ma Thành, Hoàng An, ông dời quân đến mà đánh đuổi hắn ta. Khi ấy uy danh Tục Tân trùm khắp quân Tương, quan viên gốc Chiết Giang ở kinh sư họp nhau dâng sớ, xin lấy ông làm tướng cứu viện Chiết Giang. Hồ Lâm Dực kiến nghị đưa đại quân quay về An Huy, nên có chiếu cho Tướng quân Đô Hưng A, Tổng binh Bảo Siêu từ Túc Tùng đi An Khánh, Tục Tân từ Anh Sơn đi Thái Hồ. Tục Tân bèn để em trai Tục Nghi đồn trú Vũ Xương, tự soái 8000 người lên đường. Gặp lúc Tằng Quốc Phiên cần binh sĩ, Tục Tân chia cho ông ta 1000 quân. Tục Tân đến Thái Hồ thì hội họp với quân của thự tuần phủ Lý Mạnh Quần ở Lư Châu (nay là Hợp Phì), đổi hướng tiến quân. Tháng 8 đến tháng 9, Tục Tân hạ Phong Hương Phố, Tiểu Trì Dịch, Mai Tâm Dịch, giành lại Thái Hồ, Tiềm Sơn, Đồng Thành, Thư Thành. Nghĩa quân rút chạy, Tục Tân không muốn đi quanh quẩn, bèn lui về Lư Châu.

Nghĩa quân đắp thành ở Tam Hà Trấn, bên ngoài bày 9 lũy, dựa vào những nơi hiểm yếu của Hoàng Hà, quân quân không vượt qua nổi. Tục Tân sau khi hạ Đồng Thành, Thư Thành, để một phần binh sĩ ở lại trấn thủ, đem theo gần 5000 người, vào tháng 10 ÂL, chia 3 lộ tiến đánh, quét sạch 9 lũy, giết hơn 7000 nghĩa quân, chịu thương vong chừng ngàn người. Hậu quân vẫn chưa đến, mà Trần Ngọc Thành, Lý Thế Hiền đốc quân hợp với quân Niệp đến cứu Tam Hà, doanh trại kéo dài hơn 10 dặm. Chư tướng đề nghị lui về Đồng Thành, Tục Tân không nghe. Nửa đêm, Tục Tân hạ lệnh cho các doanh chuẩn bị, trời sáng tiến đánh, đến Phàn Gia Độ, sương mù dỳ đặc, nghĩa quân chia ra đánh úp, quan quân kinh sợ tan rã, Phó tướng Lưu Hỗ Sơn, Tham tướng Bành Hữu Thắng, Du kích Hồ Đình Hòe, Trâu Ngọc Đường, Đỗ Đình Quang đều tử trận. Tục Tân xông pha khổ chiến, nhưng doanh lũy đều bị phá sau nhiều đợt tấn công của nghĩa quân. Có người khuyên Tục Tân đột vây bỏ chạy, ông từ chối. Trời về chiều, Tục Tân lên ngựa, mở lũy xông ra, giết chết vài trăm nghĩa quân. Tổng binh Lý Tục Đảo, Phó tướng Bành Tường Thụy vượt tường xông ra, nghĩa quân xông vào chiếm được lũy, tháo đê Hoàng Hà, chặn đường lui của quan quân. Tục Tân chỉnh trang mũ áo, hướng về kinh sư mà khấu đầu, đem đốt hết các văn kiện trong quân để tránh bị nghĩa quân lấy được. Xong, giục ngựa xông vào trận địa của quân Thái Bình, rồi bị giết. Đồng tri Tằng Quốc Hoa, Tri phủ Hà Trung Tuấn, Tri châu Vương Quỹ Nhất, Đồng tri Đổng Dung Phương, Tri huyền Dương Đức Tấn, Tòng cửu phẩm Lý Tục Nghệ, Trương Phổ Vạn đều tuẫn nạn. Đạo viên Tôn Thủ Tín, Vận đồng Đinh Duệ Nghĩa vẫn còn giữ hữu doanh, được 3 ngày thì thất thủ, cùng tử trận. Khi ấy các quan viên văn võ cùng chết đếm được vài trăm người, binh sĩ vài ngàn người.

Hậu sự

Nghe được những việc này, Hàm Phong đế rơi nước mắt, tự tay viết sắc truy tặng Tổng đốc, đưa vào thờ trong Chiêu trung từ, dựng Chuyên từ ở những nơi lập công, thụy là Trung Vũ; ban cho cha Tục Tân nghi lễ dành cho Nhất phẩm đại thần, ban cho các con của ông là Quang Cửu, Quang Lệnh học vị Cử nhân, còn được thế chức Kỵ đô úy.

Tăng Quốc Phiên dâng sớ thuật lại chiến tích của Tục Tân, vì thế đế ban chiếu cho Quốc Phiên chuyển sớ này sang Sử quán, để họ nắm rõ mọi sự. Đến khi dẹp xong nghĩa quân Thái Bình, triều đình nhớ công lao của Tục Tân, gia thế chức Khinh xa đô úy, gồm cả Nam tước, cho Quang Cửu thế tập.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lý Tục Tân** (chữ Hán: 李续宾, 1818 – 1858), tự **Địch Am**, người Tương Hương, Hồ Nam, tướng lãnh Tương quân nhà Thanh. Ông nổi danh là một viên kiêu tướng, đã dành trọn sự
phải|nhỏ|320x320px| Một khóa học quản lý sự tức giận. **Quản lý tức giận** là một chương trình tâm lý trị liệu để ngăn ngừa và kiểm soát sự tức giận. Nó đã được mô tả
**Cao Ly Túc Tông** (Hangul: 고려 숙종, chữ Hán: 高麗 肅宗; 2 tháng 9 năm 1054 – 10 tháng 11 năm 1105, trị vì 1095 – 1105) là quốc vương thứ 15 của vương triều
**Lý Tử Tấn** (chữ Hán: 李子晉, 1378-1457), thường gọi bằng tên tự là **Tử Tấn**, người làng Triều Đông, xã Tân Minh, huyện Thượng Phúc, trấn Sơn Nam Thượng, là nhà thơ, làm quan thời
**Lý Túc** (chữ Hán: 李肅; bính âm: Li Su) (? - 192) là một viên tướng phục vụ dưới trướng của lãnh chúa Đổng Trác vào cuối thời nhà Đông Hán và giai đoạn đầu
phải|nhỏ|240x240px| Quang phổ của ánh sáng phát ra từ đèn [[deuteri, cho thấy một phần riêng biệt (các đỉnh sắc nét cao) và một phần liên tục (thay đổi trơn tru giữa các đỉnh). Các
**Lý Tiểu Tân** (tiếng Trung giản thể: 李小新, bính âm Hán ngữ: _Lǐ Xiǎo Xīn_, sinh tháng 10 năm 1962, người Hán) là nữ chính trị gia nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Bà
**Cao Câu Ly** (; tiếng Hàn trung đại: 고ᇢ롕〮 Gowoyeliᴇ), (năm thành lập theo truyền thống là năm 37 trước Công nguyên, có lẽ thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên – 668) là một
**Tần Thủy Hoàng** (tiếng Trung: 秦始皇) (sinh ngày 18 tháng 2 năm 259 TCN – mất ngày 11 tháng 7 năm 210 TCN), tên huý là **Chính** (政), tính **Doanh** (嬴), thị **Triệu** (趙) hoặc
**Nhà Tấn** (, ; 266–420 theo dương lịch), là một trong Lục triều trong lịch sử, sau thời Tam Quốc và trước thời Nam Bắc triều ở Trung Quốc. Triều đại này do Tư Mã
**Nhà Tần** (221 TCN - 206 TCN) là triều đại kế tục nhà Chu và trước nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Nhà Tần được đặt tên theo nước Tần - nước đã chiến
**Cao Ly** (), tên đầy đủ là **Vương quốc Cao Ly**, là một vương quốc có chủ quyền ở bán đảo Triều Tiên được thành lập vào năm 918 bởi vua Thái Tổ sau khi
**Các chiến dịch bắc phạt thời Đông Tấn** chỉ loạt trận chiến của nhà Đông Tấn ở phía nam phát động trong khoảng thời gian từ năm 317 đến 419 nhằm thu phục lại miền
Các chức sắc và tín đồ ăn mặc lễ phục theo giáo lý của tôn giáo **Giáo lý Cao Đài** là những lý thuyết của đạo Cao Đài ## Mục đích Mục đích của đạo
**Lý Khắc Dụng** (chữ Hán: 李克用, 856-908), vốn có họ **Chu Tà** (chữ Hán: 朱邪), còn đọc là Chu Gia hay Chu Da (chữ Hán: 朱爷). Ông là danh tướng cuối đời nhà Đường, người
**Tần Mục công** (chữ Hán: 秦穆公; 683 TCN - 621 TCN), còn gọi là **Tần Mâu công** (秦繆公), tên thật **Doanh Nhậm Hảo** (嬴任好), là vị quốc quân thứ 14 của nước Tần - chư
**Lý Tử Xuân** (Hangul: 이자춘; 1315 – 1360) là một quan lại của Nhà Nguyên (sau đó ông chuyển sang phục vụ cho Cao Ly) và cha của Lý Thành Quế, người thành lập nhà
**Vấn đề biên giới Việt-Trung thời Lý** phản ánh những hoạt động quân sự - ngoại giao giữa nhà Lý của Việt Nam với triều đại nhà Tống của Trung Quốc xung quanh vấn đề
**Tấn Huệ công** (chữ Hán: 晋惠公, cai trị: 650 TCN – 637 TCN), tên thật là **Cơ Di Ngô** (姬夷吾), là vị vua thứ 22 của nước Tấn - chư hầu nhà Chu trong lịch
**Đôn Túc Hoàng quý phi** (chữ Hán: 敦肅皇貴妃; Khoảng 1695 - 27 tháng 12, năm 1725), Niên thị (年氏), Hán Quân Tương Hoàng kỳ, là một phi tần rất được sủng ái của Thanh Thế
**Văn Vũ Vương** (trị vì 661–681), tên thật là **Kim Pháp Mẫn**, là quốc vương thứ 30 của Tân La. Ông thường được coi là người trị vì đầu tiên của thời kỳ Tân La
**Lý Đặc** (, ? - 303), tên tự **Huyền Hưu** (玄休), là người sáng lập ra chính quyền Thành Hán. Sau này khi con là Lý Hùng xưng vương, đã truy thụy cho ông là
thumb|upright=1.1|Ảnh chụp một phòng tra tấn cũ ở [[Lữ Thuận Khẩu, Trung Quốc]] **Tra tấn** là hành vi có chủ ý gây chấn thương tâm lý hoặc thể xác nghiêm trọng cho một cá nhân
**Tàn cuộc hai Mã**, hay **Cờ tàn hai Mã** là một dạng tàn cuộc trong cờ vua, với một bên có một Vua và hai Mã chống lại một bên có một Vua và có
**Tần Chiêu Tương vương** (chữ Hán: 秦昭襄王; 325 TCN – 251 TCN, trị vì: 306 TCN - 251 TCN) hay **Tần Chiêu vương** (秦昭王), là vị vua thứ 33 của nước Tần - chư hầu
**Lý Tư** (chữ Hán: 李斯; 284 TCN 208 TCN) là nhà chính trị Trung Quốc cổ đại, làm đến chức thừa tướng dưới đời Tần Thủy Hoàng và Tần Nhị Thế. Ông là người có
**Tần** (, Wade-Giles: _Qin_ hoặc _Ch'in_) (900 TCN-221 TCN) là một nước chư hầu thời Xuân Thu và Chiến Quốc ở Trung Quốc. Cuối cùng nó đã lớn mạnh giữ vị trí thống trị toàn
**Cao Ly Duệ Tông** (Hangul: 고려 예종, chữ Hán: 高麗 睿宗; 11 tháng 2 năm 1079 – 15 tháng 5 năm 1122, trị vì 1105 – 1122) là quốc vương thứ 16 của Cao Ly.
**Chiến tranh thống nhất Trung Hoa của Tần** là một chuỗi những chiến dịch quân sự vào cuối thế kỷ thứ 3 TCN nhằm thống nhất lãnh thổ Trung Hoa do nước Tần thực hiện
Ấn tượng về tuýp kem này khi Fairfood giới thiệu cho khách của mình bị tàn nhang nám lâu năm mà vẫn đang trong quá trình chiến đấu, cô khá bất ngờ vào có chia
**Tân khu Hùng An** () là một tân khu cấp quốc gia ở Bảo Định, Hà Bắc, Trung Quốc. Hùng An là từ ghép của hai từ đầu tiên trong tên hai huyện Hùng và
**Ly Cơ** (chữ Hán: 驪姬; ? - 651 TCN), còn được gọi là **Lệ Cơ** (麗姬), là sủng phi của vua Tấn Hiến Công thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc. Nàng được người
**Chiến dịch tấn công Proskurov (Khmelnitskyi)–Chernovtsy** (từ 4 tháng 3 đến 17 tháng 4 năm 1944) là một trong các trận đánh lớn nhất giữa Hồng quân Liên Xô và Quân đội Đức quốc xã
**Chiến tranh Đường – Cao Câu Ly lần thứ nhất** nổ ra khi Đường Thái Tông Lý Thế Dân phát động chiến dịch xâm lược Cao Câu Ly quy mô lớn với lý do là
**Tần Tuyên Thái hậu** (chữ Hán: 秦宣太后, 348 TCN - 245 TCN), cũng gọi **Mị Thái hậu** (羋太后) hay **Tuyên Thái hậu** (宣太后), là một Thái hậu nước Tần thời Chiến Quốc trong lịch sử
**Tấn Giản Văn Đế** () (320 – 12 tháng 12 năm 372), tên thật là **Tư Mã Dục** (司馬昱), tên tự **Đạo Vạn** (道萬), là vị Hoàng đế thứ 8 của nhà Đông Tấn, và
**Tấn Hề Tề** (chữ Hán: 晉奚齊, 665 TCN - 651 TCN), tên thật là **Cơ Hề Tề** (姬奚齊), là vị vua thứ 20 của nước Tấn - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung
**Lý Lăng Dung** (chữ Hán: 李陵容, 351 - 400), thường được gọi **Hiếu Vũ Văn thái hậu** (**孝武文太后**) là phi tần của Tấn Giản Văn Đế Tư Mã Dục (vua thứ 12) và mẹ ruột
**Cao Ly Tuyên Tông** (Hangul: 고려 선종, chữ Hán: 高麗 宣宗; 9 tháng 10 năm 1049 – 17 tháng 6 năm 1094, trị vì 1083 – 1094) là quốc vương thứ 13 của Cao Ly.
KEM SÂM GUOYAO NHẬT BẢNXỬ LÝ NÁM VÀ TÀN NHANG HIỆU QUẢ BẤT NGỜSỰ THẬT KHÔNG PHẢI AI CŨNG BIẾT VỀNÁM - TÀN NHANGKEM SÂM GUOYAO NHẬT BẢN nguồn gốc ở đâuTrong những năm 30
**Khang phi Lý thị** (chữ Hán: 康妃李氏, 1594 – 1674), là một phi tần được đắc sủng của vua Minh Quang Tông thời nhà Minh. ## Cuộc đời Không rõ xuất thân của Lý Khang
**Kinh tế học tân cổ điển** là một trường phái kinh tế học có trọng tâm nghiên cứu là cơ chế quyết định giá cả, sản lượng, phân phối thu nhập thông qua nguyên lý
**Lý Kiến Thái** (chữ Hán: 李建泰, ? – 1649) tên tự là **Phục Dư**, người Khúc Ốc tỉnh Sơn Tây, nhân vật chính trị thời Minh mạt Thanh sơ. ## Tiểu sử Xuất thân trong
**Tần Hiến công** (chữ Hán: 秦献公, trị vì 384 TCN-362 TCN), còn gọi là **Tần Nguyên Hiến công** (秦元献公) hay **Tần Nguyên vương** (秦元王), là vị quân chủ thứ 29 của nước Tần - chư
**Cung Ý Trang phi Lý thị** (chữ Hán: 恭懿莊妃 李氏; 5 tháng 12 năm 1588 – 6 tháng 12 năm 1624), là một phi tần của vua Minh Quang Tông thời nhà Minh. ## Xuất
nhỏ|Zenon xứ Elea. **Nghịch lý Zeno** bao gồm nhiều vấn đề thuộc lĩnh vực triết học được cho là do triết gia Hy Lạp Zeno xứ Elea đặt ra nhằm củng cố học thuyết "vạn
**Vương Quán** (; ? - ?) là thừa tướng đầu tiên của nhà Tần trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Dưới thời Tần vương Chính, Vương Quán thăng chức từ Ngự sử đại
**Định lý Gauss**, hay còn gọi là **định lý phân kỳ**, hay **định lý Ostrogradsky**, hay **định lý Gauss-Ostrogradsky** (do hai nhà toán học người Đức Carl Friedrich Gauß và người Nga Mikhail Vasilyevich Ostrogradsky
**Túc Thành** () là một khu (quận) của thành phố Túc Thiên, tỉnh Giang Tô, Trung Quốc. ### Nhai đạo
* Hạnh Phúc (幸福街道) * Hạng Lý (项里街道) * Hà Tân
**Vụ phát tán video Senkaku năm 2010** (hoặc ) là một vụ phát tán các video ghi hình vụ va chạm tàu ​​Senkaku năm 2010 trên mạng chia sẻ YouTube do một sĩ quan trưởng