Kinh tế học tân cổ điển là một trường phái kinh tế học có trọng tâm nghiên cứu là cơ chế quyết định giá cả, sản lượng, phân phối thu nhập thông qua nguyên lý cung - cầu dựa trên các giả định về hành vi tối đa hóa thỏa dụng của người tiêu dùng trong điều kiện một ngân sách giới hạn hay tối đa hóa lợi nhuận của nhà sản xuất trong điều kiện chi phí bị giới hạn. Kinh tế học tân cổ điển khởi đầu bằng kinh tế học vi mô từ nửa cuối thế kỷ 19; và đến nay hầu hết các lý luận kinh tế học vi mô đều là do họ đóng góp. Kinh tế học tân cổ điển đóng góp vào kinh tế học vĩ mô chủ yếu từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Nó phối hợp với kinh tế học Keynes để tạo ra cái gọi là Trường phái kinh tế học vĩ mô tổng hợp.
Tên gọi
Thorstein Veblen trong tác phẩm Preconceptions of Economic Science công bố năm 1900 đã dùng cụm từ tiếng Anh "Neoclassical economics" để gọi thứ kinh tế học về giá trị cận biên thời ấy khi phân biệt nó với kinh tế học cổ điển (hay kinh tế chính trị cổ điển) do Adam Smith khai sinh và thứ kinh tế học của trường phái kinh tế học Áo. "Neoclassical economics" được dịch ra tiếng Việt thành "Kinh tế học tân cổ điển". Sau này, có một trường phái kinh tế học mới xuất hiện, đầu tiên ở Hoa Kỳ, tuy có gốc rễ từ kinh tế học tân cổ điển nhưng lại được xếp riêng thành một trường phái, gọi là "New classical economics". Tên phái mới này hay được dịch ra tiếng Việt thành "Kinh tế học cổ điển mới". Nhầm lẫn hay xảy ra khi gọi tên Neoclassical economics và New classical economics, kinh tế học tân cổ điển và kinh tế học cổ điển mới.
Sở dĩ gọi là kinh tế học tân cổ điển là vì các học thuyết này tiếp thu, kế thừa các chủ đề quan tâm của kinh tế học cổ điển, song sử dụng cách thức tiếp cận (phương pháp luận) mới.
Giả định và mục tiêu
E. Roy Weintraub đã nói rằng kinh tế học tân cổ điển dựa trên ba giả định, mặc dù một số nhánh nhất định của lý thuyết tân cổ điển có thể có những cách tiếp cận khác nhau:
Con người người có lựa chọn hợp lý giữa các kết quả có thể được xác định và liên kết với các giá trị.
Các cá nhân tối đa hóa lợi ích và các công ty tối đa hóa lợi nhuận.
Con người có hành động độc lập dựa trên cơ sở thông tin thích hợp và đầy đủ.
Từ những giả định cơ bản của kinh tế học tân cổ điển đưa ra một loạt lý thuyết về các lĩnh vực hoạt động kinh tế khác nhau. Ví dụ như, tối đa hóa lợi nhuận nằm sau lý thuyết tân cổ điển của công ty, trong khi việc hình thành đường cầu dẫn đến hiểu biết về hàng hóa tiêu dùng và đường cung cho phép phân tích các yếu tố sản xuất. Tối đa hóa mức độ hữu ích là nguồn gốc của lý thuyết tân cổ điển về tiêu dùng, sự hình thành của đường cầu đối với hàng hóa tiêu dùng, và sự hình thành của đường cung lao động và cầu dự trữ.
Lịch sử
Kinh tế học cổ điển do Adam Smith khai sinh và được David Ricardo phát triển. Alfred Marshall tiếp thu các lý luận của Ricardo, bổ sung thêm bằng các lý luận về thỏa dụng và tính thỏa dụng cận biên được phát triển trước đó bởi John Stuart Mill, William Stanley Jevons, Carl Menger và Leon Walras. Marshall phê phán kinh tế học cổ điển rằng quá nhấn mạnh mặt cung cấp và lợi nhuận, còn các thuyết thỏa dụng và giá trị cận biên lại quá nhấn mạnh đến mặt nhu cầu và thỏa dụng. Marshall cho rằng cả hai mặt cung và cầu đều quan trọng như nhau. Ông đã viết cuốn Principles of Economics (1890) và tác phẩm này trở thành một trong những tác phẩm kinh điển của kinh tế học tân cổ điển. Trong tác phẩm này, Marshall đã giải thích cơ chế quyết định giá cả bởi sự giao nhau của hai đường cung cấp và đường nhu cầu. Ông đã đem kỹ thuật phân tích cân bằng bộ phận vào kinh tế học tân cổ điển.
Joan Robinson và Edward H. Chamberlin là những người đã phát triển kinh tế học tân cổ điển bằng các lý luận về cạnh tranh không hoàn hảo. Leon Walras và Vilfredo Pareto đã phát triển kỹ thuật phân tích cân bằng tổng thể và đưa nó vào kinh tế học tân cổ điển. John Hicks phát triển kinh tế học tân cổ điển bằng lý luận về nhu cầu của người tiêu dùng. Francis Ysidro Edgeworth và Vilfredo Pareto phát triển kinh tế học tân cổ điện bằng lý luận về đường bàng quan.
Càng ngày, phương pháp tiếp cận của kinh tế học tân cổ điển càng áp dụng nhiều toán học. Paul Samuelson với tác phẩm Foundations of Economic Analysis (1947) đã làm cho kinh tế học tân cổ điển trở nên giống như một ngành của toán học và được giảng dạy rộng rãi tại các khoa kinh tế học bậc đại học ở Hoa Kỳ.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, một mặt kinh tế học tân cổ điển tiếp tục phát triển ở mảng kinh tế học vi mô với một loạt lý luận mà điển hình là mô hình Arrow-Debreu. Mặt khác, nó phát triển sang lĩnh vực kinh tế học vĩ mô với sự đóng góp nổi bật của Robert Solow và Samuelson.
Phê phán
Kinh tế học tân cổ điển bị phê phán bởi tính lý thuyết của nó, theo đó nó không tập trung vào giải quyết các nền kinh tế thực tế, mà lại mô tả một thứ quá lý thuyết nơi áp dụng Tối ưu Pareto. Điều kiện giả sử là các cá nhân hành động theo kỳ vọng hợp lý bị phê phán, vì nó lờ đi các khía cạnh quan trọng của hành vi con người. "Con người kinh tế" khác với con người thực tế. Doanh nghiệp ngoài mục tiêu kinh tế còn có các mục tiêu xã hội. Nó cũng bị phê phán là dựa quá nhiều vào các mô hình toán phức tạp, ví dụ như các mô hình trong lý thuyết cân bằng tổng thể. Nhìn chung, phê phán tập trung vào các giả thuyết không thực tế của lý thuyết kinh tế học tân cổ điển.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Kinh tế học tân cổ điển** là một trường phái kinh tế học có trọng tâm nghiên cứu là cơ chế quyết định giá cả, sản lượng, phân phối thu nhập thông qua nguyên lý
**Kinh tế học** (Tiếng Anh: _economics_) là môn khoa học xã hội nghiên cứu sự sản xuất, phân phối và tiêu dùng các loại hàng hóa và dịch vụ. Kinh tế học cũng nghiên cứu
**Kinh tế học vĩ mô**, **kinh tế vĩ mô**, **kinh tế tầm lớn** hay đôi khi được gọi tắt là **vĩ mô** (Tiếng Anh: _macroeconomics_), là một phân ngành của kinh tế học chuyên nghiên
**Kinh tế học hành vi** và lĩnh vực liên quan, **tài chính hành vi**, nghiên cứu các ảnh hưởng của xã hội, nhận thức, và các yếu tố cảm xúc trên các quyết định kinh
**Trường phái kinh tế học Áo** là một trường phái tư tưởng nghiên cứu các hiện tượng kinh tế học dựa trên giải thích và phân tích những hành động có mục đích của các
**Kinh tế học vĩ mô cổ điển mới** (tiếng Anh: _new classical macroeconomics_) là bộ phận kinh tế học vĩ mô dựa trên kinh tế học tân cổ điển, hình thành từ thập niên 1970.
Thế kỷ 19 đã bắt đầu xuất hiện những manh nha của **Kinh tế học vĩ mô** (KTHVM). Sự phát triển, thăng trầm của đời sống thương mại đã được một số tác giả ghi
phải|nhỏ|200x200px| Các lớp học về kinh tế sử dụng rộng rãi các biểu đồ cung và cầu như biểu đồ này để dạy về thị trường. Trong đồ thị này, S và D là cung
**Trường phái kinh tế học Chicago** (tiếng Anh: **Chicago School of economics**) là một trường phái tư tưởng kinh tế học tân cổ điển gắn liền với công việc của giảng viên tại Đại học
**Kinh tế học vĩ mô tổng hợp** là một trường phái kinh tế học vĩ mô dựa trên việc tổng hợp các học thuyết của kinh tế học tân cổ điển với kinh tế học
**Kinh tế học môi trường** là một chuyên ngành của kinh tế học ứng dụng đề cập đến những vấn đề môi trường (thường còn được sử dụng bởi các thuật ngữ khác). Khi sử
Trong kinh tế học, **đất** bao gồm tất cả các tài nguyên có nguồn gốc tự nhiên, chẳng hạn như vị trí địa lý của khu vực đất đai, các tài nguyên khoáng sản dưới
## Kinh tế học vĩ mô ;Kinh tế học vĩ mô là gì? :Kinh tế học vĩ mô :Tổng sản phẩm nội địa :Số nhân (kinh tế học) :Thất nghiệp :Lạm phát ;Nền kinh tế
**Kinh tế học chính thống** là phần kiến thức, lý thuyết và mô hình kinh tế được giảng dạy bởi các trường đại học trên toàn thế giới, và thường được các nhà kinh tế
**Lao động**, trong kinh tế học, được hiểu là một yếu tố sản xuất do con người tạo ra và là một dịch vụ hay hàng hóa. Người có nhu cầu về hàng hóa này
nhỏ|Cây kinh tế học không chính thống. **Kinh tế học phi chính thống** là bất kỳ tư tưởng hay lý thuyết kinh tế nào tương phản với các trường phái tư tưởng kinh tế chính
**Kinh tế học cổ điển** hay **kinh tế chính trị cổ điển** là một trường phái kinh tế học được xây dựng trên một số nguyên tắc và giả định về nền kinh tế để
thumb|220x124px | right | Bốn pha của chu kỳ kinh doanh **Chu kỳ kinh tế**, còn gọi là **chu kỳ kinh doanh** (Tiếng Anh: _Business cycle_), là sự biến động của GDP thực tế theo
**Phát triển kinh tế** là quá trình lớn lên, tăng tiến mọi mặt của nền kinh tế. Nó bao gồm sự tăng trưởng kinh tế và đồng thời có sự hoàn chỉnh về mặt cơ
**Lý thuyết chu kỳ kinh tế thực (lý thuyết RBC)** là một loại mô hình kinh tế vĩ mô tân cổ điển, trong đó các biến động của chu kỳ kinh doanh được tính bằng
**Hiệu quả kinh tế** là, gần như nói, một tình huống trong đó không có gì có thể được cải thiện mà không có cái gì khác bị tổn thương. Tùy thuộc vào ngữ cảnh,
**Mô hình Solow–Swan** hay **mô hình tăng trưởng ngoại sinh** là một mô hình kinh tế về tăng trưởng kinh tế dài hạn được thiết lập dựa trên nền tảng và khuôn khổ của kinh
**Chủ nghĩa xã hội thị trường** là một kiểu hệ thống kinh tế trong đó nền kinh tế thị trường được điều khiển bởi một bộ máy kế hoạch hóa tập trung nhằm nâng cao
Một **tác nhân hợp lý** (rational agent) hoặc **thực thể lý trí** (rational being) là một cá nhân hoặc thực thể luôn nhắm đến việc thực hiện các hành động tối ưu dựa trên các
**Kinh tế học Keynes** là hệ thống lý luận kinh tế vĩ mô lấy tác phẩm _Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ_ (thường được gọi tắt là _Lý thuyết
**Kinh tế Peru** là nền kinh tế có thu nhập trung bình cao theo phân loại bởi Ngân hàng Thế giới và lớn thứ 47 trên thế giới tính theo tổng GDP. Peru là một
**Kinh tế học hôn nhân** bao gồm phân tích kinh tế về việc thành lập và chia tách hộ gia đình, về các quyết định sản xuất và phân phối trong hộ gia đình. Nó
**Lịch sử tư tưởng kinh tế** là lịch sử của các nhà tư tưởng và học thuyết kinh tế chính trị và kinh tế học từ thời cổ đại đến ngày nay. Lịch sử tư
**Thuyết số lượng tiền tệ** là lý luận cho rằng trong dài hạn số lượng tiền tệ không phụ thuộc vào quy mô của GDP mà vào thay đổi của giá cả hoặc thay đổi
Tiền giấy mệnh giá 500 [[đồng Việt Nam Cộng hòa|đồng phát hành năm 1966]] **Kinh tế Việt Nam Cộng hòa** (1955-1975) là một nền kinh tế theo hướng thị trường, đang phát triển, và mở
So sánh GDP TQ **Nền kinh tế của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa** là một nền kinh tế đang phát triển định hướng thị trường kết hợp kinh tế kế hoạch thông qua các
**Kinh tế chính trị** là một môn khoa học xã hội nghiên cứu việc sản xuất và trao đổi hàng hóa đặt trong mối quan hệ với chính trị dưới nhãn quan của chính trị
**Tăng trưởng kinh tế** là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản lượng quốc dân (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân trên đầu người
**Kinh tế sức chú ý** là một cách tiếp cận quản lý thông tin coi sức chú ý của con người như một mặt hàng khan hiếm, áp dụng các lý thuyết kinh tế học
**Vật lý kinh tế** là một lĩnh vực nghiên cứu liên ngành, áp dụng các lý thuyết và phương pháp ban đầu được các nhà vật lý phát triển để giải quyết các vấn đề
**Kinh tế Nhật Bản** là một nền kinh tế thị trường tự do phát triển. Nhật Bản là nền kinh tế lớn thứ ba thế giới theo GDP danh nghĩa và lớn thứ tư theo
**Kinh tế Bắc Triều Tiên** phản ánh những quan hệ sản xuất, cơ cấu kinh tế và tình hình kinh tế, đời sống tại CHDCND Triều Tiên. Nhìn chung, nền kinh tế CHDCND Triều Tiên
**Kinh tế chia sẻ** là một mô hình thị trường lai (ở giữa sở hữu và tặng quà) trong đó đề cập đến mạng ngang hàng dựa trên chia sẻ quyền truy cập vào hàng
**Kinh tế Việt Nam** là một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang phát triển, phụ thuộc lớn vào nông nghiệp, du lịch, xuất khẩu thô và đầu tư trực
**Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh**, còn được gọi là **Đại học UEH** () là đại học đa thành viên chuyên khối kinh tế hệ công lập, thuộc nhóm đại học trọng
**Kinh tế Pháp** là nền kinh tế phát triển cao và định hướng thị trường tự do. Pháp là quốc gia có nền kinh tế lớn thứ 7 trên thế giới vào năm 2020 tính
**Lịch sử kinh tế Nhật Bản** được quan tâm nghiên cứu chính là vì sự phát triển kinh tế mạnh mẽ của nước này và bởi vì Nhật Bản là nền kinh tế quốc gia
**Tình báo kinh tế** (hay còn gọi là **Gián điệp kinh tế**) là toàn bộ những hoạt động tìm kiếm, xử lý, truyền phát và bảo vệ thông tin có ích cho các thành phần
**Kinh tế Việt Nam giai đoạn 1976-1986** nằm trong bối cảnh thời bao cấp, đây là giai đoạn áp dụng mô hình kinh tế cũ ở miền Bắc cho cả nước sau khi thống nhất
**Kinh tế Hoa Kỳ** (Mỹ) là một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa hỗn hợp với kỹ nghệ, mức độ công nghiệp hóa và trình độ phát triển rất cao. Đây không chỉ là
**Trường Kinh tế và Khoa học Chính trị London** (tiếng Anh: _The London School of Economics and Political Science_, viết tắt **LSE**), là một cơ sở nghiên cứu và giáo dục công lập chuyên về
**Nền kinh tế Ý** là nền kinh tế quốc gia lớn thứ ba của Liên minh châu Âu, lớn thứ tám tính theo GDP danh nghĩa của thế giới và lớn thứ 12 theo GDP
nhỏ|phải|Thỏi vàng **Bản vị vàng** hay **kim bản vị** là chế độ tiền tệ mà phương tiện tính toán kinh tế tiêu chuẩn được ấn định bằng hàm lượng vàng. Dưới chế độ bản vị
**Kinh tế Vương quốc /Liên hiệp Anh và Bắc Ireland** là một nền kinh tế thị trường xã hội và định hướng thị trường phát triển cao. được cấu thành bởi 4 nền kinh tế
**Nền kinh tế nền tảng** (trong tiếng Anh gọi là **Platform Economy**) được hiểu là một phần của nền kinh tế mà tại đó các hoạt động kinh tế và xã hội được diễn ra