✨Lý Mục (Bắc Tống)

Lý Mục (Bắc Tống)

Lý Mục (chữ Hán: 李穆, 928 – 984), tên tự là Mạnh Ung, người Dương Vũ, Khai Phong , là sử gia, quan viên nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc.

Xuất thân

Cha là Lý Hàm Trật, làm đến Thiểm Tây đại đô đốc phủ Tư mã nhà Hậu Chu. Mục từ nhỏ đã biết làm văn chương; có phẩm hạnh cao quý: nhắt được của rơi, ắt tìm chủ nhân mà trả lại. Theo người Toan Tảo là Vương Chiêu Tố học tập các sách Dịch, Trang tử, Lão, tận lực nghiên cứu nghĩa lý. Chiêu Tố nói với Mục rằng: "Những gì con nắm được là tinh lý, thường thường bộc lộ ý chí của ta." Còn nói riêng với người ta rằng: "Trò Lý ngày sau ắt là vật dụng trong lang miếu ." Chiêu Tố bèn đem 33 thiên Dịch luận do mình trước tác dạy cho Mục.

Thời Tống Thái Tổ

Đầu niên hiệu Hiển Đức (954 – 959) thời Hậu Chu Thế Tông, Mục nhờ đỗ tiến sĩ, được làm Dĩnh, Nhữ 2 châu tòng sự, thăng Hữu thập di. Đầu đời Bắc Tống, nhờ gia quan Điện trung thị ngự sử mà được chọn làm Dương Châu thông phán. Mục đến nhiệm sở, xử lý tất cả án tụng tồn đọng, không còn vụ nào. Được dời làm Thiểm Tây thông phán; gặp lúc quan lại hữu quan điều tô thuế đến Hà Nam, Mục lấy cớ bản trấn thiếu lương thực, không lập tức đáp ứng, chịu tội miễn quan. Lại chịu tội cất nhắc quan lại dưới quyền có sai lầm, bị lột tiền tư . Bấy giờ em Mục là Túc làm Bác Châu thứ sử, ông đem mẹ đến ở với Túc, anh em cùng nhau học tập trong cảnh nghèo nàn, chí nhạt lòng nhàn.

Năm Khai Bảo thứ 5 (972), nhờ gia quan Thái tử trung doãn mà được triệu. Năm sau (973), được bái làm Tả thập di, Tri chế cáo. Từ đời Ngũ đại về trước, mệnh lệnh đều là văn vẻ hoa mỹ, đến Mục chỉ dùng từ ngữ nhã, chánh, dốc sức uốn nắn tệ nạn ấy. Bấy giờ nhà Tống sắp đánh Nam Đường, đã sắp xếp quân đội, nhưng chưa có cớ phát binh. Tống Thái Tổ trước tiên triệu Nam Đường Hậu Chủ Lý Dục vào triều, lấy Mục làm sứ giả. Mục đến Nam Đường tuyên dụ, Hậu Chủ cáo bệnh từ chối, còn nói: "Phụng sự đại triều là muốn được bảo toàn, nay như thế này, không bằng chết cho xong." Mục nói: "Vào triều hay không, quốc chủ tự quyết định. Nhưng triều đình có giáp binh tinh nhuệ, vật lực giàu mạnh, sợ rằng không dễ chống lại khí thế ấy, nên nghĩ cho kỹ, chớ để hối hận về sau." Mục quay về, kể lại mọi việc, Thái Tổ cho rằng ông đã khuyên dụ những điều thiết yếu. Người Nam Đường cũng cho rằng lời của Mục là thành thật.

Thời Tống Thái Tông

Đầu niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc (976 – 984) thời Tống Thái Tông, được chuyển làm Tả bổ khuyết. Mùa đông năm thứ 3 (978), được gia chức Sử quán tu soạn, Phán quan sự, Thái Tông tự tay ban Kim tử (Kim ấn Tử thụ/ấn vàng thao đỏ). Năm thứ 4 (979), tòng chinh Bắc Hán trở về, được bái làm Trung thư xá nhân. Tham gia biên soạn Thái Tổ thực lục, được ban đai áo, đồ bạc, tăng thái . Năm thứ 7 (982), Triệu Phổ tố cáo Lư Đa Tốn với Tần vương Triệu Đình Mỹ mưu phản, Mục với Đa Tốn là học trò đồng môn, đi lại thân mật; ông còn giúp Đình Mỹ soạn thảo Triều từ hốt ký , nên bị gián quan đàn hặc, chịu giáng chức làm Tư phong viên ngoại lang.

Mùa xuân năm thứ 8 (983), Mục với bọn Tống Bạch cùng làm Tri cống cử, đến khi gặp hoàng đế ở điện Sùng Chánh khảo thí tiến sĩ, Thái Tông thấy dung mạo của ông tiều tụy, ngay hôm ấy cho khôi phục Trung thư xá nhân, Sử quán tu soạn, Phán quán sự. Tháng 5 ÂL, được triệu làm Hàn lâm học sĩ. Tháng 6 ÂL, được làm Tri Khai Phong phủ; Mục phán đoán tinh tế và mẫn tiệp, kẻ gian không còn chỗ nương tựa, do vậy hào môn trốn tránh, quyền quý không dám lấy tư làm công, Thái Tông mới thấy được tài năng của ông. Tháng 11 ÂL, được cất nhắc làm Tả gián nghị đại phu, Tham tri chánh sự. Hơn tháng sau, do mẹ mất nên rời chức. Ít lâu sau, được khởi phục bản quan. Mục ba lần dâng biểu xin được chung chế, có chiếu cưỡng ép ông nhận chức; Mục càng đau xót, dốc sức làm lễ tang.

Tháng giêng Âl năm thứ 9 (984), Mục trỗi dậy buổi sáng, chuẩn bị vào triều thì phát chứng Phong huyễn mà đột tử, hưởng thọ 57 tuổi. Được tặng Công bộ thượng thư.

Tính cách

Mục tính chí hiếu: vì mẹ ông luôn ốm bệnh, mỗi cử động, di chuyển của bà đều do Mục tự mình dìu đỡ, sao cho vừa ý mẹ. Khi Mục bị kết tội làm văn cho Tần vương Triệu Đình Mỹ, con trai ông là Duy Giản nói dối với bà nội rằng cha mình xét án ở Ngự sử đài. Đến khi Mục bị giáng chức, được về nhà, cũng không nói rõ với mẹ. Cứ cách ngày, trời sáng thì Mục đến thăm mẹ, đưa bà đi thăm thân hữu, hoặc dạo chùa chiền. Về khoảng thời gian Mục bị miễn quan rồi được phục quan, mẹ ông rốt cục không biết gì. Đến khi giữ tang, Mục thương nhớ đến mức gầy yếu.

Mục giỏi viết chữ triện, lệ, lại khéo vẽ, luôn che giấu những tài năng ấy; tính trung hậu chất phác, nói làm thận trọng, hành vi thành thực, không chút bày vẽ. Mục rất ham giải thích kinh điển, giỏi bàn luận chính sự, những người được ông tiến dẫn, phần nhiều thành đạt. Mục rất khoan dung, kẻ hầu chưa từng thấy ông vui giận. Mục trước tác văn chương, lập tức hủy đi, phần nhiều không giữ lại bản thảo.

Đánh giá

Tống Thái Tổ từng nói với Lư Đa Tốn: "Lý Mục tính nhân thiện, ngoài văn chương, học vấn thì không ham thích gì." Đa Tốn đáp: "Mục tính rất ngay thẳng, gặp việc thì không vì sống chết mà đổi tiết, người như thế cũng là kẻ dũng vậy!" Thái Tổ nói: "Đúng như vậy! Ta nên dùng ông ta!"

Tống Thái Tông nghe tin Mục mất, khóc với cận thần rằng: "Mục là lương thần của nước, trẫm đang trọng dụng, bất ngờ mất đi, chẳng phải là bất hạnh của riêng ai, mà là bất hạnh của trẫm đấy."

Gia quyến

Em trai là Lý Túc, tự Quý Ung, lên 7 tuổi đã đọc sách hiểu nghĩa, lên 10 tuổi làm thơ, thường thường có được câu hay. Túc đỗ tiến sĩ, đứng đầu khoa; từng được làm Bộc, Bác 2 châu tòng sự, thăng Bảo Tĩnh quân Tiết độ thôi quan. Túc hay rượu, chiếu thư mới ban xuống, ông cả đêm cùng thân hữu tụ tập say sưa, ngủ vùi rồi mất, hưởng dương 33 tuổi. Túc trước tác 9 bài Đại Tông nhạc chương, lấy nghĩa 9 thành (thành công), 9 hạ (to lớn), nhằm ca tụng thịnh đức của nhà Tống, lời văn rất khéo; còn làm Đại Chu Ngung Đáp Bắc Sơn di văn, Điếu U Ưu Tử văn, Bệnh Kê phú,... đều có ý như trên.

Con trai là Lý Duy Giản, nhờ cha làm quan nên được làm Tương tác giám thừa. Duy Giản lắm tài hoa, tính thanh đạm, không ham làm quan, rời chức về nhà hơn 30 năm, được người đời khen ngợi. Tống Chân Tông vốn nghe tiếng, năm Cảnh Đức thứ 3 (1006), giáng chiếu cho con Duy Giản là Đàm thụ chức Tương tác giám chủ bộ. Mùa đông năm Đại Trung Tường Phù thứ 7 (1014), Duy Giản được triệu vào gặp, được đặc bái làm Thái tử trung doãn trí sĩ, sau đó được gia Thái thường thừa. Năm Thiên Hy thứ 4 (1020), mất, gia đình được ban 10 vạn tiền, cho Đàm 1 tháng để phụng sự chung chế.

Cháu nội là Lý Đàm, làm đến Thái tử trung xá.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lý Mục** (chữ Hán: 李穆, 928 – 984), tên tự là **Mạnh Ung**, người Dương Vũ, Khai Phong , là sử gia, quan viên nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. ## Xuất thân
**Cao Ly Mục Tông** (Hangeul: 고려 목종, chữ Hán: 高麗 穆宗; 5 tháng 7 năm 980 – 2 tháng 3 năm 1009, trị vì 997 – 1009) là quốc vương thứ 7 của vương triều
**Trần Đông** (chữ Hán: 陈东, 1086 – 1127), tự Thiếu Dương, người Đan Dương, Trấn Giang , nhân vật yêu nước cuối đời Bắc Tống. Ông là người lãnh đạo phong trào vận động của
**Phan Mỹ** (chữ Hán: 潘美, 925 – 991), tên tự là **Trọng Tuân**, người phủ Đại Danh , là tướng lĩnh đầu đời Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông là nguyên mẫu của
**Phí Mục** (chữ Hán: 費穆, 477 – 529), tự Lãng Hưng, người quận Đại , tướng lãnh cuối đời nhà Bắc Ngụy. Ông có công tham gia trấn áp các lực lượng nổi dậy cuối
**Lý Mậu** (chữ Hán: 李茂, 432 – 502), tên tự là **Trọng Tông**, người huyện Địch Đạo, quận Lũng Tây , quan viên nhà Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc.
**Vấn đề biên giới Việt-Trung thời Lý** phản ánh những hoạt động quân sự - ngoại giao giữa nhà Lý của Việt Nam với triều đại nhà Tống của Trung Quốc xung quanh vấn đề
**Tổng giáo phận Hà Nội** (tiếng Latinh: _Archidioecesis Hanoiensis_) là một tổng giáo phận Công giáo ở Việt Nam, quản lý giáo dân phần lớn trung tâm Hà Nội, một phần các tỉnh Ninh Bình,
**Gioan Baotixita Nguyễn Huy Bắc** (sinh năm 1967) là một giám mục Công giáo người Việt, hiện đang đảm nhận chức vụ Giám mục chính tòa Giáo phận Ban Mê Thuột. Ông là giám mục
**Bắc Kinh** (; ), là thủ đô của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Thành phố nằm ở miền Hoa Bắc, và là một trong số bốn trực hạt thị của Trung Hoa, với
**Miền Bắc nước Anh** hay **Bắc Anh** () được xem là một khu vực văn hoá riêng. Khu vực trải dài từ biên giới với Scotland tại phía bắc đến gần sông Trent tại phía
**Nhà Tống** là hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 960 đến năm 1279. Triều đại này được sáng lập bởi Tống Thái Tổ sau khi ông soán ngôi Hoàng đế Hậu Chu rồi
nhỏ|300x300px|Bản đồ miêu tả chiến tranh Kim–Tống **Chiến tranh Kim – Tống** là một loạt các cuộc xung đột giữa nhà Kim (1115–1234) của người Nữ Chân và nhà Tống (960–1279) của người Hán. Năm
Đạo Phật có một lịch sử phát triển rất thăng trầm trong suốt hơn 2.500 năm; lan tỏa từ Ấn Độ ra khắp nơi trên thế giới. Do đó, việc hình thành các bộ phái
**Nam Bắc triều** (, 420-589) là một giai đoạn trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ năm 420 khi Lưu Dụ soán Đông Tấn mà lập nên Lưu Tống, kéo dài đến năm 589
Trong Tam giáo thì Nho giáo (儒教) và Đạo giáo (道教) là hai hệ thống tín ngưỡng/tôn giáo bản địa của Trung Quốc; còn Phật giáo là một tôn giáo du nhập từ Ấn Độ.
**Tống Thái Tổ** (chữ Hán: 宋太祖, 21 tháng 3, 927 - 14 tháng 11, 976), tên thật là **Triệu Khuông Dận** (趙匡胤, đôi khi viết là **Triệu Khuông Dẫn**), tự **Nguyên Lãng** (元朗), là vị
**Tống Nhân Tông** (chữ Hán: 宋仁宗, 12 tháng 5, 1010 - 30 tháng 4, 1063), tên húy **Triệu Trinh** (趙禎), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc,
**Tống Thần Tông** (chữ Hán: 宋神宗, 25 tháng 5, 1048 - 1 tháng 4, 1085), húy **Triệu Húc** (趙頊), là vị Hoàng đế thứ sáu của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, ông
**Tống Chân Tông** (chữ Hán: 宋真宗, 23 tháng 12 năm 968 - 23 tháng 3 năm 1022), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Quân đội nhà Lý** là tổ chức quân đội của nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, từ đầu thế kỷ 11 đến đầu thế kỷ 13. Hoạt động quân sự nhà Lý diễn ra
**Tống Thái Tông** (chữ Hán: 宋太宗, 20 tháng 11 năm 939 - 8 tháng 5 năm 997), tên húy **Triệu Quýnh** (趙炅), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại Bắc Tống trong lịch
**Lý Thái Tông** (chữ Hán: 李太宗 29 tháng 7 năm 1000 – 3 tháng 11 năm 1054) là vị hoàng đế thứ hai của triều đại nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, cai trị
**Tống Hiếu Tông** (chữ Hán: 宋孝宗, 27 tháng 11 năm 1127 – 28 tháng 6 năm 1194), tên thật là **Triệu Bá Tông** (趙伯琮), **Triệu Viện** (趙瑗), **Triệu Vĩ** (趙瑋) hay **Triệu Thận** (趙昚), tên
**Nhà Lý** (chữ Nôm: 茹李, chữ Hán: 李朝, Hán Việt: _Lý triều_), đôi khi gọi là nhà **Hậu Lý** (để phân biệt với triều đại Tiền Lý do Lý Bí thành lập) là một triều
**Bắc Ireland** (, ) là một quốc gia cấu thành Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland ở đông bắc của đảo Ireland, giáp với Cộng hòa Ireland ở phía nam và phía tây.
**Hồ Bắc** (, tiếng Vũ Hán: Hŭbě) là một tỉnh ở miền trung của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Giản xưng chính thức của tỉnh Hồ Bắc là "Ngạc" (鄂), lấy theo tên một
**Giuse Lý Sơn** (, _Joseph Li Shan_; sinh 1965) là một Giám mục người Trung Quốc của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông hiện đảm nhận nhiệm vụ Tổng giám mục chính tòa Tổng giáo
**Chiến tranh Kim-Tống** (1162 - 1164) chỉ một loạt các cuộc giao tranh giữa quân đội hai nước Kim và Nam Tống trong lịch sử Trung Quốc kéo dài trong suốt ba năm 1162 -
**Trần Thái Tông** (chữ Hán: 陳太宗 9 tháng 7 năm 1218 – 5 tháng 5 năm 1277), tên khai sinh là **Trần Cảnh** (陳煚), là vị hoàng đế đầu tiên của Hoàng triều Trần nước
**Lý Quốc Sư** (chữ Hán: 李國師 15 tháng 10 năm 1065 –19 tháng 11 năm 1141) là tên gọi theo quốc tính họ Vua do nhà Lý ban cho và ghép với chức danh pháp
**Cao Ly** (), tên đầy đủ là **Vương quốc Cao Ly**, là một vương quốc có chủ quyền ở bán đảo Triều Tiên được thành lập vào năm 918 bởi vua Thái Tổ sau khi
**Bang giao Đại Việt thời Lý** phản ánh các hoạt động ngoại giao của chính quyền nhà Lý từ năm 1009 đến năm 1225 trong lịch sử Việt Nam. ## Hoàn cảnh Năm 1009, Lý
**Thiên Thai tông** (zh. _tiāntāi-zōng_ 天台宗, ja. _tendai-shū_) là một tông phái Phật giáo Trung Quốc do Trí Di (538-597) sáng lập. Giáo pháp của tông phái này dựa trên kinh _Diệu pháp liên hoa_,
**Cao Ly Quang Tông** (Hangul: 고려 광종, chữ Hán: 高麗 光宗; 925 – 4 tháng 7 năm 975, trị vì 949 – 975) là vị quốc vương thứ tư của Cao Ly. Ông là con
**Trận Bắc Ninh** hay **Trận Pháp đánh thành Bắc Ninh** là một phần của cuộc chiến tranh Pháp-Việt 1858-1884 diễn ra từ ngày 7 tháng 3 năm 1884 và kết thúc vào ngày 12 tháng
**Hà Bắc** (; bính âm bưu chính: **Hopeh**) là một tỉnh nằm ở phía bắc của Trung Quốc. Giản xưng của Hà Bắc là Ký, Hán tự: "", theo tên Ký châu thời Nhà Hán,
**Nam Đường Hậu Chủ** (chữ Hán: 南唐後主; 937 - 978), tên thật là **Lý Dục** (李煜), thông gọi **Lý Hậu Chủ** (李後主), là vị vua cuối cùng nước Nam Đường thời Ngũ Đại Thập Quốc
**Vạn Lý Trường Thành** (), gọi tắt là **Trường Thành**, là tên gọi chung cho nhiều thành lũy kéo dài hàng ngàn cây số từ Đông sang Tây, được xây dựng bằng đất và đá
**Tống Huy Tông** (chữ Hán: 宋徽宗, 2 tháng 11, 1082 – 4 tháng 6, 1135), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ
nhỏ|Các nước "cộng hòa tổng thống" với mức độ "tổng thống chế toàn phần" được biểu thị bằng màu **Xanh biển**. Các quốc gia có một mức độ "tổng thống chế bán phần" được biểu
**Tống Cao Tông** (chữ Hán: 宋高宗, 12 tháng 6 năm 1107 - 9 tháng 11 năm 1187), tên húy là **Triệu Cấu** (chữ Hán: 趙構), tên tự là **Đức Cơ** (德基), là vị Hoàng đế
nhỏ|phải|[[John Adams, Phó Tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên]] **Phó Tổng thống Hoa Kỳ** (_Vice President of the United States_) là một người giữ chức vụ công do Hiến pháp Hoa Kỳ tạo ra. Phó
**Trương Tuấn** (chữ Hán: 張俊, 1086 - 1154), tên tự là **Bá Anh** (伯英), nguyên quán ở Thành Kỉ, phủ Phượng Tường, là tướng lĩnh dưới thời Bắc Tống và Nam Tống trong lịch sử
nhỏ|Cbmain Trong khoa học máy tính, một **ngôn ngữ lập trình bậc cao** (tiếng Anh: _high-level programming language_) là một ngôn ngữ lập trình có sự trừu tượng hóa mạnh mẽ khỏi các chi tiết
**Lâm Tế tông** (zh. _línjì-zōng/lin-chi tsung_ 臨濟宗, ja. _rinzai-shū_) là một dòng thiền được liệt vào Ngũ gia thất tông—tức là Thiền chính phái—do Thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền sáng lập. Đây là tông
**Minh Tư Tông** (chữ Hán: 明思宗; 6 tháng 2 năm 1611 - 25 tháng 4 năm 1644) tức **Sùng Trinh Đế** (崇禎帝), là vị hoàng đế cuối cùng của triều đại nhà Minh và cũng
**Quản lý giá trị thu được** (tiếng Anh là Earned value management, viết tắt là **EVM**) là một kỹ thuật quản lý dự án để đo lường sự tiến triển (tiến trình thực hiện) của
**Gioan Baotixita Lý Tô Quang** (, _John Baptist Li Su-guang_; sinh 1964) là một giám mục người Trung Quốc của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông hiện đảm nhận chức Tổng giám mục chính tòa
Tề Dượng vương **Vũ Văn Hiến** (chữ Hán: 宇文宪, 544 - 578), tên tự là **Bì Hà Đột**, người trấn Vũ Xuyên, Đại Quận , dân tộc Tiên Ti, là tướng lĩnh, hoàng thân nhà