✨Lưu Ly Minh Vương

Lưu Ly Minh Vương

Lưu Ly Vương (phiên âm từ các chữ Hán 瑠璃王 hoặc 琉璃王), hay Nho Lưu Vương (phiên âm từ 儒留王), tại thế 38 TCN - 18, trị vì 19 TCN - 18 (37 năm), là vị vua thứ hai của Cao Câu Ly - một trong ba quốc gia thời kỳ Tam quốc tại Triều Tiên. Phần lớn cuộc đời và sự nghiệp của vua Lưu Ly được biết từ sách Tam quốc sử ký. Húy của ông được một số tư liệu chữ Hán cổ ghi là 類利 hoặc 孺留. Vua là người cai trị thứ hai của Goguryeo, phía bắc của Tam Quốc tại Triều Tiên. Ông là con trai duy nhất của Jumong - người sáng lập ra vương quốc Cao Câu Ly (Goguryeo) và có mẹ là Duệ Tố Gia Lady Ye. Cũng như nhiều vị vua khác của lịch sử Triều Tiên, các sự kiện của cuộc đời ông được biết đến chủ yếu từ Tam quốc sử ký Samguk Sagi.

Bối cảnh

Lưu Ly là con của Đông Minh Vương Cao Chu mông, vua sáng lập của nước Cao Câu Ly và người vợ đầu là Duệ Tố Gia (Ye Soa), ông được mẹ sinh ra tại Phù Dư Quốc. Đến năm 19 TCN thì cùng mẹ đào thoát khỏi Đông Phù Dư đến Cao Cấu Ly để gặp cha mình.

Trong Tam quốc sử ký ghi lại như sau: "Khi Chu Mông còn ở Đông Phù Dư đã cưới một cô gái họ Lễ (tức Ye Soa) và đã có thai, nhưng sau khi Chu Mông rời đi rồi thì nàng mới sinh con, đứa bé ấy chính là Lưu Li. Lưu Li lúc còn nhỏ ra đường chơi bắn chim sẻ chẳng may làm vỡ một cái chum cùa một người phụ nữ đi lấy nước. Người phụ nữ đó mắng rằng: "Đứa bé này quả là không có cha nên mới như thế". Lưu Li xấu hổ về nhà hỏi mẹ: "Bố con là người thế nào, giờ đang sống ở đâu?". Người mẹ đáp: "Bố con không phải là người thường. Khi đất nước Phù Dư không chấp nhận ông ấy, ông ấy đã chạy về phương nam, lập ra nước mới và trở thành vua rồi". Khi bố con ra đi có dặn mẹ rằng: "Nếu nàng sinh được con trai thì hãy nói cho nó biết rằng ta đã giấu một vật để lại cho nó ở dưới gốc một cây thông trên tảng đá có bảy cạnh. Nếu nó tìm thấy vật này thì lúc đó nó thật sự là con của ta". Lưu Li nghe nói vậy bèn đến hẻm núi tìm nhưng không thấy thì mệt mỏi trở về.

Một hôm, khi cậu bé đang ngồi trên sàn nhà bỗng thấy hình như có gì đó phát ra từ giữa cái cột và cái bệ đá đỡ cột. Cậu bé bèn quan sát thì thấy cái bệ đá đỡ cột có bảy cạnh. Cậu bèn tìm dưới cái cột quả nhiên tìm tháy một đoạn kiếm gãy. Cuối cùng cậu đã mang một phần thanh kiếm bị bẻ gãy cùng với ba người là Ốc Trí (Ok-ji), Cú Trâu (Gu-chu), Đô Tổ (Do-Jo) lên đường đến Tốt Bản (Jolbol); gặp phụ vương, cậu dâng đoạn kiếm gãy lên cho người. Vua cha Chu Mông vui mừng phong cho Lưu Li làm thái tử; giờ lên nối ngôi vua."

Khi ông đến gặp cha - Cao Chu mông thì ngay lập tức được cha phong cho làm Thái tử, mẹ Duệ Tố Gia được tấn phong làm hoàng hậu. Onjo và Biryu (hai người con trai riêng của So Sŏno) - vợ sau của Cao Chu Mông bị đe đọa nên So Sŏno đưa họ xuống phía nam để sáng lập vương quốc Bách Tế. Lưu Ly lên ngôi sau cái chết của Đông Minh Vương.

Cai trị

Lưu Ly Vương được mô tả là một vị vua hùng mạnh và là một nhà chỉ quân sự thành công. Ông đã chinh phạt người Hung Nô năm 9 TCN. Năm 3 TCN, ông dời đô về thành Quốc Nội thành (國內城, 국내성, Kungnae-sŏng).

Vua Daeso của Đông Phù Dư đã yêu cầu một liên minh với nhà Hán (đời vua Nhũ Tử Anh), và tuyển đủ quân để tăng cường sức mạnh quân đội hòng tấn công Cao Câu Ly. Tuy nhiên trước khi tấn công, Daeso cũng gửi một sứ giả tới vua của Cao Câu Ly là Lưu Ly Vương, ra lệnh cho Lưu Ly Vương phải gửi một con tin hoàng gia cho Đông Phù Dư. Lưu Ly Vương kháng lại mệnh lệnh này và gây ra cuộc chiến tranh đầu tiên giữa Cao Câu Ly và Đông Phù Dư vào năm 6 CN. Daeso trực tiếp dẫn dắt 50.000 quân Đông Phù Dư và quân Hán xâm nhập Cao Câu Ly, nhưng bắt buộc phải rút lui do tuyết bắt đầu rơi rất nặng. Vì lý do này, Daeso phải đợi bảy năm để chiếm lại những sự mất mát do sự gây chiến lần đầu tiên với Cao Câu Ly. Năm 8 CN, Vương Mãng phế truất vua Hán là Nhũ Tử Anh, cướp ngôi nhà Hán, lập ra nhà Tân ở Trung Quốc.

Vua nhà Tân ở Trung Quốc là Vương Mãng bắt Cao Câu Ly đánh các tộc khác ở Liêu Tây nhưng bị Lưu Ly Vương từ chối. Vương Mãng bèn sai Nghiêm Ưu lừa giết Lưu Ly Vương, chặt đầu mang về Trường An và đổi "Cao Câu Ly" thành "Hạ Câu Ly". Thực tế vua Lưu Ly Vương vẫn còn sống sau vụ ám sát này. Năm 12 CN, Vương Mãng sai sứ mời Lưu Ly tham gia liên minh tấn công người Hung Nô. Song, Lưu Ly Vương không những từ chối mà còn tấn công nhà Tân của Vương Mãng, chiếm lấy vài thành trì của nhà Tân.

Năm 13 CN, vua Daeso của Đông Phù Dư lại dẫn dắt quân đội xâm nhập Cao Câu Ly một lần nữa. Thời gian này, Hae Muhyul (Giải Vô Tuất), một hoàng tử Cao Câu Ly và là cháu nội của Go Jumong, đã dẫn dắt quân đội của Cao Câu Ly lập kế hoạch kỹ sau đó phục kích và tàn sát tất cả quân đội của vua Daeso. Chỉ có Daeso và số ít những binh lính của ông ấy thoát khỏi về nhà. Với hai sự thất bại này, kinh tế của Đông Phù Dư rơi và sự hỗn loạn tất yếu.

Lưu Ly có sáu người con trai, trong đó có Hae Myung và Hae Muhyul (Giải Vô Tuất). Hae-Myung được phong làm thế tử sau khi người con cả của Lưu Ly là Dojul mất, nhưng Lưu Ly nhận thấy người này quá hấp tấp, liều lĩnh, ương bướng, vì vậy ông lập Hae Muhyul, con của ông với con gái của Tùng Nhượng (Song Yang) làm thế tử từ năm 14 CN.

Tương truyền, Lưu Ly có làm thơ và một bài nổi tiếng đến tận ngày nay là bài Hoàng điểu ca (黃鳥歌, 황조가, Hwangchoka, có nghĩa là "Bài ca chim Hoàng Điểu") nhằm tặng cho người thiếp Chihui của mình.

Kế thừa

Lưu Ly Vương qua đời năm 18 sau khi cai trị trong hơn 37 năm. Ông được nối ngôi bởi Muhyul, người trở thành Đại Vũ Thần Vương.

Thông tin cá nhân

*Cha: Đông Minh Vương. *Mẹ: * Lady Ye (Vương Hậu Duệ Tố Gia). Chính thất: Vương hậu Tùng thị, con gái của Tùng Nhượng (Songyang). *Phi tần: Tùng thị, em gái của Vương hậu Tùng thị. Hòa cơ (Hwahui). *Trĩ cơ (Chihui). Con: Dojeol, Thế tử (mất năm 1). Hae-myeong, Phế thế tử (phong năm 1, phế truất năm 14). Muhyul, Thế tử (phong năm 14), sau này là Đại Vũ Thần Vương, lên ngôi năm 18. Yeojin, Vương tử (mất năm 18). Hae Se-ryu/Yeo-rang, Công chúa. Hae Saek-ju (?-48), sau này là Mẫn Trung Vương. **Go Jae-sa, người đứng đầu họ Cao của nhánh Gyeru, cha của Thái Tổ Đại Vương.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lưu Ly Vương** (phiên âm từ các chữ Hán 瑠璃王 hoặc 琉璃王), hay Nho Lưu Vương (phiên âm từ 儒留王), tại thế 38 TCN - 18, trị vì 19 TCN - 18 (37 năm), là
**Minh Vương** (chữ Hán: 明王) là thụy hiệu hoặc tước hiệu của một số vị quân chủ và phiên vương trong lịch sử khu vực Á Đông thời phong kiến. ## Danh sách * Tây
**Vương Mãng** (chữ Hán: 王莽; 12 tháng 12, 45 TCN - 6 tháng 10, năm 23), biểu tự **Cự Quân** (巨君), là một quyền thần nhà Hán, người về sau trở thành vị Hoàng đế
**Cao Chu Mông** (tiếng Triều Tiên: 주몽, 朱蒙 _Go Jumong_), hay **Đông Minh Thánh Vương** (東明聖王 _Dongmyeongseongwang_ hay 東明王 _Dongmyeongwang_) (58 - 19 TCN, trị vì 37 - 19 TCN) là vị vua sáng lập
**Lưu Tống Minh Đế** (chữ Hán: 劉宋明帝; 439–472), tên húy là **Lưu Úc** (), tên tự **Hưu Bỉnh** (休炳), biệt danh **Vinh Kì** (榮期), là hoàng đế thứ 7 của triều Lưu Tống trong lịch
**Đại Vũ Thần Vương** (4-44, trị vì 18-44)đọc là Muhyul, là vị vua thứ ba của Cao Câu Ly - một trong ba quốc gia của thời kỳ Tam Quốc Triều Tiên. Vua Thần Vương
**Văn Tư Minh Vương** (mất 519, trị vì 491–519) là vị quốc vương thứ 21 của Cao Câu Ly. Ông là cháu trai của Trường Thọ Vương (413–490). Mặc dù phụ thân của ông là
**Thái Tổ Đại Vương** (28 – 146), thụy là **Quốc Tổ Thái Vương**, trị vì từ năm 53 – 146. Ông là vị vua thứ sáu của nhà Cao Cấu Ly. Ông lên ngôi vua
**Mẫn Trung Vương** (? - 48), trị vì từ năm 44-48, là vị quốc vương thứ tư của Cao Cấu Ly - một trong ba quốc gia thời Tam Quốc Triều Tiên. ## Bối cảnh
**Minh Vương** (tên khai sinh: **Nguyễn Văn Vưng,** sinh ngày 1 tháng 6 năm 1950) là nghệ sĩ cải lương nổi tiếng người Việt Nam, thành danh từ trước năm 1975. Ông kết hợp cùng
**Lưu Tương** (chữ Hán: 刘襄, ? - 97 TCN), tức **Lương Bình vương** (梁平王), là vương chư hầu thứ bảy của nước Lương, chư hầu nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Lưu Tương là
**Lưu Vũ** (, 184 TCN-144 TCN), tức **Lương Hiếu vương** (梁孝王), là tông thất nhà Hán, chư hầu vương thứ ba của nước Đại, thứ ba của nước Hoài Dương và thứ năm của nước
**Ôn Tộ**, hay **Onjo**, (? - 28; trị vì: 18 TCN – 28) là vị vua đầu tiên của Bách Tế, một trong ba Tam Quốc tại bán đảo Triều Tiên. Theo Tam Quốc Sử
**Trần Trương Minh Vương** (sinh ngày 21 tháng 12 năm 1984), thường được biết tới đơn giản là **Minh Vương** (hay còn gọi là **Minh Vương M4U**) là nam ca sĩ và nhạc sĩ nhạc
**Lịch đại Đế Vương miếu** (chữ Hán phồn thể: 厯代帝王廟; chữ Hán giản thể: 历代帝王庙, bính âm Hán ngữ: _Lìdài Dì Wáng miào_), còn gọi là **Miếu Lịch đại Đế Vương Trung Quốc** hay **Đế
**Minh Thái Tổ** (chữ Hán: 明太祖, 21 tháng 10 năm 1328 – 24 tháng 6 năm 1398), tên thật là **Chu Trùng Bát** (朱重八 ), còn gọi là **Hồng Vũ Đế** (洪武帝), **Hồng Vũ quân**
**Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland** hoặc **Vương quốc Liên hiệp Đại Anh và Ireland** () là quốc gia được thành lập ngày 1 tháng 1 năm 1801 khi Vương quốc Đại Anh và
**Hán Chiêu Liệt Đế** (漢昭烈帝), hay **Hán Tiên chủ**, **Hán Liệt Tổ**, tên thật là **Lưu Bị** (, ; ; 161 – 10 tháng 6 năm 223), tự là **Huyền Đức,** là Hoàng đế khai
**Cao Câu Ly** (; tiếng Hàn trung đại: 고ᇢ롕〮 Gowoyeliᴇ), (năm thành lập theo truyền thống là năm 37 trước Công nguyên, có lẽ thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên – 668) là một
**Lý Định Quốc** (Phồn thể: 李定國, Giản thể: 李定国, 1620-1662), tự **Hồng Thuận** hay **Ninh Vũ**, tên lúc nhỏ là **Nhất Thuần**; người Diên An, Thiểm Tây, có thuyết là Du Lâm, Thiểm Tây; là
**Lưu Tống Văn Đế** (chữ Hán: 劉宋文帝; 407–453), tên húy là **Lưu Nghĩa Long** (), tiểu tự **Xa Nhi** (車兒), là một hoàng đế của triều Lưu Tống thời Nam-Bắc triều. Ông là con trai
**Hiến Ai Vương hậu** (Hangul: 헌애왕후, Hanja: 獻哀王后; 964 – 20 tháng 1, 1029), hay **Thiên Thu Vương thái hậu** (천추왕태후, 千秋王太后), là một Vương hậu của nhà Cao Ly. Bà là vợ, đồng thời
**Minh Anh Tông** (chữ Hán: 明英宗, 29 tháng 11, 1427 – 23 tháng 2, 1464), là vị Hoàng đế thứ 6 và thứ 8 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì
**Nhà Minh**, quốc hiệu chính thức là **Đại Minh**, là triều đại cai trị Trung Quốc từ năm 1368 đến năm 1644 sau sự sụp đổ của nhà Nguyên do người Mông Cổ lãnh đạo.
**Nhà Lưu Tống** (; 420-479) là triều đại đầu tiên trong số bốn **Nam triều** ở Trung Quốc, tiếp theo sau nó là nhà Nam Tề. ## Quốc hiệu Triều đại này do Lưu Dụ
**Nhà Lý** (chữ Nôm: 茹李, chữ Hán: 李朝, Hán Việt: _Lý triều_), đôi khi gọi là nhà **Hậu Lý** (để phân biệt với triều đại Tiền Lý do Lý Bí thành lập) là một triều
**Cao Ly** (), tên đầy đủ là **Vương quốc Cao Ly**, là một vương quốc có chủ quyền ở bán đảo Triều Tiên được thành lập vào năm 918 bởi vua Thái Tổ sau khi
**Cao Ly Mục Tông** (Hangeul: 고려 목종, chữ Hán: 高麗 穆宗; 5 tháng 7 năm 980 – 2 tháng 3 năm 1009, trị vì 997 – 1009) là quốc vương thứ 7 của vương triều
**Lý Nguyên Cát** (chữ Hán: 李元吉, 603 – 2 tháng 7 năm 626), biểu tự **Tam Hồ** (三胡), là một thân vương của triều đại nhà Đường. Ông là con của hoàng đế khai quốc
**Lưu Cứ** (Phồn thể: 劉據; giản thể: 刘据, 128 TCN - 91 TCN), hay còn gọi là **Lệ Thái tử** (戾太子) hoặc **Vệ Thái tử** (衛太子), là Hoàng trưởng tử của Hán Vũ Đế Lưu
**Bột Hải** (, , ) là một vương quốc đa sắc tộc cổ của Triều Tiên tồn tại từ năm 698 đến 926 được lập ra bởi Đại Tộ Vinh (_Tae Choyŏng_) từ sau khi
**Vương quốc Lưu Cầu** (tiếng Okinawa: _Ruuchuu-kuku_; _Ryūkyū Ōkoku_; ) là một vương quốc thống trị phần lớn quần đảo Ryukyu từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19. Các vua Lưu Cầu đã thống
**Minh Tư Tông** (chữ Hán: 明思宗; 6 tháng 2 năm 1611 - 25 tháng 4 năm 1644) tức **Sùng Trinh Đế** (崇禎帝), là vị hoàng đế cuối cùng của triều đại nhà Minh và cũng
**Tống Vũ Đế** (chữ Hán: 宋武帝, 16 tháng 4 năm 363 - 26 tháng 6 năm 422), tên thật là **Lưu Dụ** (劉裕), tên tự **Đức Dư** (德輿), Đức Hưng (德興), tiểu tự **Ký Nô**
**(Lưu) Tống Hiếu Vũ Đế** (chữ Hán: 劉宋孝武帝; 19 tháng 9 năm 430 – 12 tháng 7 năm 464), tên húy là **Lưu Tuấn** (), tên tự là **Hưu Long** (休龍), tiểu tự **Đạo Dân**
**Lý An Dân** (chữ Hán: 李安民, 427 - 486), người huyện Thừa, quận Lan Lăng , tướng lãnh nhà Lưu Tống, nhà Nam Tề. Vì Lý Duyên Thọ biên soạn Nam sử vào đời Đường,
**Lý Tự Thành** (李自成) (1606-1645) nguyên danh là **Hồng Cơ** (鴻基), là nhân vật thời _"Minh mạt Thanh sơ"_ trong lịch sử Trung Quốc. Cuộc khởi nghĩa và cuộc đời của Lý Tự Thành gắn
**Lý Nhật Quang** (chữ Hán: 李日㫕) (995-1057) là một hoàng tử và quan nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. Ông được nhân dân vùng Nghệ Tĩnh tôn làm bậc Thánh và lập đền thờ
**Đại Vương** (chữ Hán: 大王) là thụy hiệu hoặc tôn hiệu của một số vị quân chủ, ngoài ra **Đại Vương** (代王) còn là tước hiệu của một số vị quân chủ. ## Thụy hiệu
**Minh Tuyên Tông** (chữ Hán: 明宣宗, 25 tháng 2, 1398 – 31 tháng 1, 1435), là vị Hoàng đế thứ năm của triều đại nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ
**_Tam quốc sử ký_** (Hangul: 삼국사기 samguk sagi) là một sử liệu của người Triều Tiên bằng chữ Hán, về Tam Quốc là Cao Câu Ly, Bách Tế và Tân La trong lịch sử Triều
**Triệu vương** (趙王) là một phong hiệu dành cho các quốc vương và thân vương Trung Quốc cổ đại, đặt theo nước Triệu nhà Chu. ## Việt Nam ### Thời kỳ Bắc thuộc lần thứ
**Vương hậu Camilla** (tên khai sinh là **Camilla Rosemary Shand**, sinh ngày 17 tháng 7 năm 1947) là Vương hậu của Vương quốc Liên hiệp Anh và 14 vương quốc khác thuộc Khối Thịnh vượng
**Loạn Ninh vương** (chữ Hán: 寧王之亂, _Ninh vương chi loạn_), sau xưng là **loạn Chu Thần Hào** (朱宸濠之乱) hoặc **loạn Thần Hào** (宸濠之乱), chỉ về sự kiện diễn ra vào năm thứ 14 thời Chính
**Triều đại Tudor** hoặc **Nhà Tudor** là một Vương thất châu Âu có nguồn gốc từ xứ Wales. Từ năm 1485 đến 1603, Nhà Tudor cai trị Vương quốc Anh và các lãnh thổ, trong
**Cao Ly Thái Tổ**, húy danh là **Vương Kiến** (Hangul: 왕건 (Wang Geon), chữ Hán: 王建, 31/1/877 - 4/7/943), trị vì từ năm 918 tới năm 943. Ông là vị vua đầu tiên đã thành
**Lưu Miễn** (chữ Hán: 刘勔; 刘勉 , 418 – 474), hay **Lưu Mẫn**, tự Bá Du, người Bành Thành , tướng lãnh nhà Lưu Tống. ## Thân thế Miễn là hậu duệ của học giả
**Lý Anh Tông** (chữ Hán: 李英宗 tháng 4 năm 1136 - 14 tháng 8 năm 1175) là vị hoàng đế thứ sáu của nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, trị vì từ năm 1138
**Minh Mục Tông** (chữ Hán: 明穆宗, 4 tháng 3, 1537 - 5 tháng 7, 1572), là Hoàng đế thứ 13 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm 1567 đến năm
**Louis Henri Joseph de Bourbon** (13 tháng 4 năm 1756 – 30 tháng 8 năm 1830) là Thân vương xứ Condé từ năm 1818 cho đến khi qua đời. Ông là anh rể của Louis