Lễ cưới Khmer (, phiên âm: , phát âm tiếng Việt là "À-pia-pi-pia Khơ-me") là một nghi lễ của đồng bào dân tộc Khmer. Là một sự kiện quan trọng của mỗi đời người, còn gọi ngày gối đôi.
|thumb|Đám cưới hiện đại của người Khmer
Lễ cưới thường kéo dài trong một ngày rưỡi. Nó bắt đầu tại nhà của cô dâu, sau đó là một nghi lễ tôn giáo và trao đổi các món quà nghi lễ. Những bộ quần áo mặc được bao phủ bởi trang sức như một sự bày tỏ lòng thành kính đối với cha mẹ cô dâu và chú rể, và tất cả những người thân và bạn bè của cặp đôi có mặt. Cha mẹ dâng lời chúc phúc, cầu mong cho cuộc sống hạnh phúc của đôi uyên ương. Về lý thuyết, hôn nhân là hôn nhân một vợ một chồng và trọn đời.
Lịch sử
Nguồn gốc: tái hiện biểu tượng đám cưới huyền thoại của Preah Thong và Neang Neak
Preah Thong (Kaudinya Đệ nhất) và Neang Neak (Nữ hoàng Soma) là những nhân vật biểu tượng trong văn hóa Khmer. Họ được cho là đã thành lập nhà nước Phù Nam thời tiền Angkor. Phần lớn phong tục đám cưới của người Khmer có thể bắt nguồn từ cuộc hôn nhân của Preah Thong và Neang Neak.
Cô dâu và chú rể Campuchia nói chung và Khmer Nam Bộ Việt Nam nói riêng tái hiện trong mỗi đám cưới truyền thống của người Khmer vì nghi lễ cưới tượng trưng cho cuộc hôn nhân của Preah Thaong và cô dâu Neang Neak. Điều này giải thích nhiều phong tục đám cưới của người Khmer, trong đó chú rể mang khăn của cô dâu, tượng trưng cho việc anh ta từ xa đến và kết hôn với gia đình cô, trái ngược với phong tục đám cưới của Ấn Độ, nơi cô dâu đeo khăn của chú rể. Cô dâu và chú rể mặc trang phục được trang trí bằng trang sức và được bao quanh bởi gia đình và khách mời. Trang phục của cặp đôi là biểu hiện của lòng hiếu kính đối với bố mẹ vợ và bố mẹ chồng, cả hai cùng dâng lời chúc phúc cho đôi uyên ương.
Sự phát triển của nghi thức đám cưới của người Khmer
Qua nhiều thế kỷ, nghi thức hôn nhân của người Campuchia đã phát triển và tích hợp nhiều yếu tố khác nhau phản ánh lịch sử lâu đời của nó.
Nghiên cứu dân tộc học về đám cưới của người Khmer Nam Bộ
Tài liệu tham khảo học thuật sớm nhất về nghi thức đám cưới ở Campuchia do nhà dân tộc học người Pháp Paul Pelliot thuộc Viện Viễn Đông Bác Cổ của Pháp đưa ra vào năm 1903 với những tường thuật về phong tục vào thế kỷ thứ mười ba của nhà ngoại giao Trung Quốc Chu Đạt Quan.
Năm 1965, Hòa thượng Nhiek Nou, một tu sĩ của dòng Dhammayut , đã xuất bản một tập sách nhỏ có tựa đề Kpuon Abah-bibah hay Hiệp ước liên quan đến hôn nhân. Nó gồm bốn phần, hai phần đầu liên quan đến các nghi lễ đám cưới của người Khmer dành cho hoàng gia cũng như thường dân. Nó cũng khiển trách các thế hệ trẻ vì đã áp dụng các truyền thống phương Tây trong lễ cưới ở Campuchia.
Mô tả bao quát đầu tiên về đám cưới của người Khmer được xuất bản vào năm 1920 bởi nhà thực dân Pháp Arthur Daguin.
Khmer Đỏ: Thảm kịch của những cuộc hôn nhân ép buộc
Trong cuộc Nội chiến Campuchia, một lễ cưới ở Campuchia đã bị máy bay B-52 bắn nhầm. Đó là sự khởi đầu của một thời kỳ bi thảm của đám cưới của người Khmer.
Các lính Khmer Đỏ chia gia đình và tách ra những người đàn ông từ những người phụ nữ. Cha, mẹ và các con thường xuyên phải xa nhau trong nhiều tháng. Một người đàn ông và phụ nữ thường không có thời gian để viên mãn một cuộc hôn nhân, và quan hệ tình dục bị hạn chế bởi thời gian dài xa cách. Quan hệ ngoài hôn nhân và thậm chí tán tỉnh giữa những người trẻ tuổi đã bị trừng phạt nặng nề.
Mô tả về các cặp vợ chồng mới cưới bị lính bí mật theo dõi trong đêm tân hôn của họ để đảm bảo quan hệ tình dục đã được ghi lại.
Đám cưới Khmer hiện đại
Kể từ những năm 1990, mặc dù nhiều người Campuchia nhấn mạnh rằng lễ cưới đúng nghĩa của người Khmer phải là một sự kiện kéo dài ba ngày, nhưng hầu hết các đám cưới của người Khmer ở Phnôm Pênh đều được tổ chức vào một ngày duy nhất. Bởi vì sự đơn giản hóa này, một phần lớn âm nhạc truyền thống được sử dụng để đi kèm với lễ kỷ niệm đã không còn được sử dụng hoặc bị mất hoàn toàn.
Một số người đã chỉ trích xu hướng chi tiêu quá mức hiện nay của người Khmer, đặc biệt là ở cộng đồng người Khmer hải ngoại, với niềm tin về sự thành công của đám cưới được xác định bằng tiền.
Nghi thức
Lễ cưới Hoàng gia
Các thành viên của gia đình hoàng gia và các chức sắc trong cung điện và con cái của họ được hưởng kiểu đám cưới truyền thống cổ xưa này. Bộ quy tắc nghi lễ được quy định bởi Sắc lệnh Hoàng gia ban hành vào ngày 14 tháng 3 năm 1909. Đặc điểm chính là lời chúc phúc của Hoàng gia mà Nhà vua dành cho các cặp đôi mới cưới trong trang phục đẹp nhất của họ bằng cách đổ nước chúc phúc và ném những cánh hoa vào họ.
Các đám cưới hoàng gia là một sự kiện kéo dài ba ngày diễn ra trong các bức tường của cung điện Hoàng gia. Vào ngày đầu tiên, 19 tu sĩ, gợi nhớ của 19 linh hồn trong truyền thống Khmer, đã được mời để chào mừng paritta trước khi dịch vụ được thực hiện cho các linh hồn và popil được luân chuyển. Một bữa tiệc sau đó được tổ chức trong các khu vườn của Cung điện. Vào ngày thứ hai, Nhà vua sẽ ban phước lành bằng nước thánh Bà la môn sau khi hai vợ chồng phản kháng ba lần trước Phụ hoàng.
Đám cưới bình dân
Phong tục tập quán khác nhau giữa các khu vực nông thôn và thành thị, với nhiều cư dân thành phố bị ảnh hưởng bởi các tư tưởng phương Tây. Việc chọn vợ / chồng thường do gia đình nam nữ thanh niên đảm nhận, đôi khi có sự giúp đỡ của người mai mối. Một người đàn ông thường kết hôn trong độ tuổi từ 19 đến 25 tuổi 16 và một cô gái từ mười sáu đến 22 tuổi.
Đám cưới truyền thống là một chuyện lâu dài và nhiều màu sắc. Đám cưới truyền thống của người Khmer ban đầu kéo dài bảy ngày bảy đêm. Sau đó, nó được giảm xuống còn ba ngày và ba đêm, nhưng đến những năm 1980, nó thường kéo dài hơn một ngày rưỡi. Buổi lễ bắt đầu vào buổi sáng tại nhà của cô dâu và được chỉ đạo bởi achar. Các tu sĩ Phật giáo cung cấp một bài giảng ngắn và đọc những lời cầu nguyện gia trì. Các phần của nghi lễ bao gồm nghi lễ cắt tóc và buộc những sợi bông được ngâm trong nước thánh quanh cổ tay của cặp đôi.
Trong lễ cưới truyền thống của người Khmer, trước khi chú rể bước vào nhà gặp cô dâu, anh ta sẽ quỳ gối và tỏ lòng thành kính về phía đông nơi mặt trời mọc.
Nghi thức trong đó những người tham gia vào mối quan hệ tương hỗ "bền chặt" (chang dai) của cặp cô dâu bằng cách làm một món quà bằng tiền thể hiện sự gắn bó của họ với đôi vợ chồng mới cưới và gia đình của họ, như một sự trao đổi nhằm thúc đẩy tình đoàn kết và nghĩa vụ lẫn nhau.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lễ cưới Khmer** (, phiên âm: , phát âm tiếng Việt là "À-pia-pi-pia Khơ-me") là một nghi lễ của đồng bào dân tộc Khmer. Là một sự kiện quan trọng của mỗi đời người, còn
**Lễ cưới** (;) là một nghi lễ của đồng bào dân tộc Lự ở Trung Quốc, Việt Nam, Myanmar, Lào và Thái Lan. Em lấy vợ, anh em của vợ thuộc bàng hệ chéo hai,
**Người Khmer tại Việt Nam** là bộ phận dân tộc Khmer ở Việt Nam, người Khmer là dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng Đồng bằng Sông Cửu Long. Người Khmer được công nhận
Lễ hội **Bon Om Touk** (Khmer: បុណ្យអុំទូក, IPA: [bon om tuːk], còn gọi là _Lễ hội nước_, _lễ hội đua ghe_, _Um-tuk_) tại Campuchia bắt nguồn từ rất lâu trong lịch sử. Lễ hội được
**Người M'Nông** theo cách gọi của Việt Nam và họ tự gọi dân tộc của họ là **Bu-Nông**. Theo phiên âm tiếng Khmer là **Phnong Đơm** nghĩa là Khmer cổ thời **Phù Nam**. Dân tộc
**Người Chăm**, **người Chăm Pa** hay **người Degar-Champa** (tiếng Chăm: ꨂꨣꩃ ꨌꩌꨛꨩ, اوراڠ چامفا, _Urang Campa_; tiếng Khmer: ជនជាតិចាម, _Chónchèat Cham_; ; ), còn gọi là **người Chàm**, **người Chiêm**, **người** **Chiêm Thành**, **người Hời**,
**Khmer Đỏ** (tiếng Campuchia: ខ្មែរក្រហម, ) là tên gọi dành cho thế lực và tổ chức chính trị cực tả cầm quyền tại Campuchia từ 1975 đến 1979 dưới sự lãnh đạo công khai của
**Người Êđê** (tiếng Êđê: **Anak Rađê** hay được dùng phổ biến theo cộng đồng là **Anak Đê** hay **Đê-Ga**) là một dân tộc có vùng cư trú truyền thống là miền trung Việt Nam và
Lễ Sen Dolta của người Khmer ở Trà Vinh được tổ chức trong khoảng từ 16/8 đến mùng 2/9 âm lịch hàng năm, gồm ba giai đoạn: Canh bân, Sen Dolta (cúng đón tiếp) và
**Đế quốc Khmer** hay **Đế quốc Angkor** (tiếng Khmer cổ: ; chuyển tự Latinh: **Kambuja**) là một cựu đế quốc rộng lớn nhất Đông Nam Á với diện tích lên đến 1 triệu km², từ
**Không quân Quốc gia Khmer** (tiếng Pháp: _Armée de l'Air Khmère_ – AAK; tiếng Anh: _Khmer National Air Force_ - KNAF hoặc KAF) là quân chủng không quân Quân lực Quốc gia Khmer (FANK) và
**Kun Khmer** (tiếng Khmer: គុនខ្មែរ [kun kʰmae]) hay còn gọi là **Pradal Srey** (tiếng Khmer: ប្រដាល់សេរី [prɑɗal seːrəj]) là môn võ truyền thống của Campuchia có từ thời đại Angkor. Trong tiếng Khmer, từ _Kun_
Chôl Chnăm Thmây (hoặc Chol Chnam Thmay) là lễ hội mừng năm mới theo lịch cổ truyền của dân tộc Khmer. "Chôl” nghĩa là “Vào” và “Chnăm Thmay” là “Năm Mới” Hằng năm, lễ hội
Lễ hội làng Vân Côn - Hoài Đức - Hà Nội Lễ hội đua bò 7 núi An Giang **Lễ hội Việt Nam** là sự kiện văn hóa được tổ chức mang tính cộng đồng.
**Lực lượng đặc biệt Khmer** (tiếng Anh: _Khmer Special Forces_ (KSF) hoặc _Forces Speciales Khmères_ (FSK) trong tiếng Pháp) là đơn vị biệt kích tinh nhuệ của Lực lượng Vũ trang Quốc gia Khmer (FANK)
**Người Campuchia gốc Việt** là nhóm người sinh sống tại Campuchia nhưng về mặt huyết thống, xuất phát từ Việt Nam. Cộng đồng người Campuchia gốc Việt là dân tộc thiểu số lớn nhất tại
**Người Mã Lai** hay **Người Malay** (; chữ Jawi: ملايو) là một dân tộc Nam Đảo nói Tiếng Mã Lai chủ yếu sinh sống trên bán đảo Mã Lai cùng các khu vực ven biển
**Người Gia Rai**, còn gọi là **Jarai** (**Jrai**) hay **Ană Krai** (con của rồng), là một dân tộc cư trú ở vùng Tây Nguyên của Việt Nam, đa số là tại Gia Lai và một
**Lễ hội đua bò Bảy Núi** là một lễ hội của đồng bào dân tộc Khmer, Nam bộ. Mang đậm nét bản sắc văn hóa dân gian, trong đó có lễ hội đua bò kéo
**Lê Duẩn** (7 tháng 4 năm 1907 – 10 tháng 7 năm 1986) là một chính trị gia người Việt Nam, Bí thư Thứ nhất Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1960 đến năm
**Người Mường**, còn có tên gọi là **Mol**, **Moan**, **Mual**, là dân tộc sống ở khu vực trung du và miền núi phía Bắc Việt Nam. Người Mường được công nhận là một thành viên
**Đại hội Thể thao Người khuyết tật Đông Nam Á 2023**, tên chính thức là **Đại hội Thể thao Người khuyết tật Đông Nam Á lần thứ XII**, và thường được gọi là **Campuchia 2023**,
**Người Cống** (tên gọi khác **Xắm Khống**, **Mông Nhé**, **Xá Xeng**) là dân tộc thiểu số cư trú ở vùng bắc Lào, tây bắc Việt Nam và bắc Thái Lan. Tên dân tộc theo tiếng
**Người Rơ Măm** là một dân tộc ít người ở Việt Nam. Tộc người này cư trú chính tại làng Le, xã Mô Rai, huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum. Người Rơ Măm là một
phải|Trang phục dân tộc Xơ Đăng (ảnh chụp tại [[Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam)]] **Người Xơ Đăng** hay **Xê Đăng**, còn có tên gọi khác là _Sedang,_ _Cà Dong,_ _Sơ-drá, Hđang, Mơ-nâm, Hà
**Họ người Việt Nam** gồm các họ của người dân tộc Kinh và các dân tộc thiểu số khác sống trên lãnh thổ đất nước Việt Nam. Việt Nam nằm ở khu vực Đông Nam
:_Xin xem các cách dùng khác tại Mạ (định hướng)_. **Người Châu Mạ** hay **người Mạ** (có tên gọi khác **Mạ Xốp**, **Mạ Tô**, **Mạ Krung**, **Mạ Ngắn**) là một dân tộc trong số 54
**Hát dù kê** (, ) là kịch hát truyền thống của nghệ thuật sân khấu hát và múa của dân tộc Khmer "Lakhon Dù kê" (tiếng Khmer: ល្ខោន យីកេ, nghĩa đen là nhà hát Dù
**Cộng hòa Khmer** (, ) là một nước cộng hòa đầu tiên của Campuchia. Thời Việt Nam Cộng hòa thường được gọi là _Cộng hòa Cao Miên_ hay _Cao Miên Cộng hòa_, được thành lập
Chôl Chnăm Thmây là lễ hội mừng năm mới theo lịch cổ truyền của đồng bào dân tộc Khmer. Lễ hội diễn ra vào khoảng giữa tháng Tư Dương lịch hằng năm, bao gồm nhiều
**Hải quân Quốc gia Khmer** (tiếng Pháp: _Marine Nationale Khmère_ – MNK; tiếng Anh: _Khmer National Navy_ – KNN) là quân chủng hải quân Quân lực Quốc gia Khmer (FANK) và là lực lượng quân
**Pol Pot** (tên khai sinh: **Saloth Sâr**; 19 tháng 5 năm 1925 – 15 tháng 4 năm 1998) là một nhà cách mạng và chính khách người Khmer, từng phục vụ chính thể Campuchia Dân
**Lục quân Quốc gia Khmer** (tiếng Pháp: _Armée Nationale Khmère_ - ANK; tiếng Anh: _Khmer National Army_ - KNA) là quân chủng lục quân Quân lực Quốc gia Khmer (FANK) và là lực lượng quân
**Người Campuchia gốc Hoa**(, ;) là những công dân Campuchia có nguồn gốc Hoa. Từ "Khmer-Chen" trong tiếng Khmer được sử dụng để chỉ những người lai Khmer và Hoa hay người có quốc tịch
**Lon Nol** (tiếng Khmer: លន់នល់, 1913 - 1985) là chính trị gia Campuchia giữ chức Thủ tướng Campuchia hai lần cũng như đã liên tục giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng dưới thời vua
**Ngữ tộc Môn-Khmer**, **Môn-Mên** hay **Mồn-Mên** là một nhóm ngôn ngữ Nam Á bản địa của Đông Dương và một phần Đông Nam Á. Theo truyền thống, chúng được coi là tạo thành một nhóm
Can Mộc Linh Của Đông Y Sĩ Phạm Bằng.Vị Danh y miền sông nước:Người bênh gan sắp chếtđều... sống lạiRất nhiềubênh nhân viêm gan, xơ gan cổ trướng, bụng to như cái rổ, bị bênh
Can Mộc Linh Của Đông Y Sĩ Phạm Bằng.Vị Danh y miền sông nước:Người bênh gan sắp chếtđều... sống lạiRất nhiềubênh nhân viêm gan, xơ gan cổ trướng, bụng to như cái rổ, bị bênh
**Người Xtiêng** hay còn gọi là **người Stiêng** hay **Giẻ Xtiêng** (không nhầm với người Giẻ Triêng) là một dân tộc trong số 54 dân tộc tại Việt Nam. Người Xtiêng nói tiếng Xtiêng, một
**Người Khơ Mú** (; Khmu: ; ; ; , ở Trung Quốc phiên âm Hán là **Khắc Mộc** (), tên gọi khác: **Xá Cẩu, Mứn Xen, Pu Thênh, Tềnh, Tày Hạy**, trong văn liệu Latinh
Người Bru - Vân Kiều gùi hàng trên [[đường 9]] **Người Bru - Vân Kiều** (còn gọi là **người Bru**, **người Vân Kiều**, **người Ma Coong**, **người Trì** hay **người Khùa**) là dân tộc cư
**Người Chu Ru** là một dân tộc trong số 54 dân tộc tại Việt Nam . Người Chu Ru cư trú chủ yếu ở Lâm Đồng. Người Chu Ru đa số nói tiếng Chu Ru,
**Người Brâu** (còn gọi là **người Brạo**) là một dân tộc ít người sinh sống chủ yếu tại Campuchia, Lào và một ít tại Việt Nam Tiếng Brâu là một ngôn ngữ trong ngữ tộc
**Người Tiều** là cách gọi người **người Triều Châu,** là bộ phận người Hoa xuất xứ từ Triều Châu, Trung Quốc, đến định cư sinh sống ở Việt Nam. Người Tiều chiếm số đông trong
**Sóc Trăng** là một tỉnh cũ ven biển nằm trong vùng hạ lưu Nam sông Hậu thuộc đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. ## Nguồn gốc tên gọi Tên gọi Sóc Trăng do từ
**Gia Long** (; 8 tháng 2 năm 1762 – 3 tháng 2 năm 1820), tên húy là **Nguyễn Phúc Ánh** (阮福暎), thường được gọi là **Nguyễn Ánh** (阮暎), là một nhà chính trị, nhà quân sự
**Jayavarman VII** (1181? - 1220?) là vua của Đế quốc Khmer (1181-1215?), ngày nay là Campuchia. Ông là con trai của Dharanindravarman II (trị vì 1150-1160) và Sri Jayarajacudamani. Ông đã cưới Jayarajadevi và sau
**Bùi Hữu Nghĩa** (1807 - 1872), hay **Thủ khoa Nghĩa**, trước có tên là là **Bùi Quang Nghĩa**, hiệu **Nghi Chi**; là quan nhà Nguyễn, là nhà thơ và là nhà soạn tuồng Việt Nam.
**Đền Bayon** nằm ở trung tâm quần thể Angkor Thom, Campuchia. Đây là ngôi đền ấn tượng nhất của kiến trúc đền núi Campuchia do sự hùng vĩ về quy mô cũng như về cảm
**Campuchia Dân chủ** (, ; còn gọi là **Kampuchea**, , _Kămpŭchéa_) là tên chính thức của nhà nước Campuchia từ năm 1976 đến năm 1979, dưới sự cai trị của Pol Pot và Đảng Cộng