✨Jayavarman VII

Jayavarman VII

Jayavarman VII (1181? - 1220?) là vua của Đế quốc Khmer (1181-1215?), ngày nay là Campuchia. Ông là con trai của Dharanindravarman II (trị vì 1150-1160) và Sri Jayarajacudamani. Ông đã cưới Jayarajadevi và sau khi bà qua đời ông cưới chị gái bà là Indradevi. Người ta cho rằng hai người phụ nữ này đã truyền cảm hứng lớn cho ông, đặc biệt là lòng mộ đạo của ông đối với Phật giáo. Trước đó chỉ có một vị vua khác của Đế quốc Khmer là một Phật tử. Ông là người đã cho xây dựng nhiều đền đài như Ta Prohm, Preah Khan, Angkor Thom và Bayon.

Thời trẻ

Jayavarman có lẽ đã trải qua tuổi trẻ ở một nơi xa kinh đô Angkor. Có lẽ ông đã ở với những người Chăm ở khu vực ngày nay là miền Trung Việt Nam. Người Chăm và người Khmer có chung các tôn giáo như Phật giáo và Bà-la-môn giáo cũng như việc sử dụng ngôn ngữ tôn giáo là tiếng Phạn.

Đánh bại người Chăm và lên ngôi

Năm 1177, người Chăm xâm chiếm Campuchia trong trận thủy chiến Tonlé Sap. Năm 1177, người Chăm đã bất ngờ tấn công kinh đô Khmer bằng đội thuyền đi ngược dòng sông Mê Kông, qua hồ Tonlé Sap và ngược lên sông Siem Reap. Người Chăm đã cướp bóc thủ đô Khmer Yasodharapura và giết chết vua Khmer. Cũng năm 1178, Jayavarman nổi bật nhờ lãnh đạo quân đội Khmer đánh đuổi người Chăm, lúc này ông có thể đã đến độ tuổi lục tuần. Ông đã dẹp loạn các phe phái tại kinh đô và lên ngôi vua. Vào thời kỳ đầu trị vì, ông có lẽ đã đánh bại một cuộc tấn công nữa của người Chăm, dẹp một cuộc nổi loạn và xây lại kinh đô Angkor. Năm 1191, ông đã chiếm được kinh đô của Champa.

Jayavarman VII với kinh thành Angkor Thom

Là vị vua nổi tiếng nhất của người Khmer và là vị vua xây dựng nhiều đền đài nhất thời Angkor. Các công trình xây dựng dưới thời ông là: Ta Prohm, Preah Khan, Jayatataka Baray,Neak pean, Ta Som, Ta Nei, Banteay chhmar, Angkor Thom, Prasats Chrung, Bayon, Sân Voi, Ta Prohm Kel,Hospital Chapel, Krol Kô, Srah Srang, Royal Place. phải|Tượng vua Jayavarman VII tại Hoàng Cung Campuchia Trong số những ngôi đền đó, nổi tiếng hơn cả là kinh thành Angkor Thom với đền Bayon là sự tuyệt mỹ về kiến trúc và điêu khắc.

Jayavarman VII lúc sinh thời vốn là một người thích sống ẩn dật, chọn lối sống thanh bần, ông thờ ơ với mọi biến động trong đời sống. Đến 50 tuổi, thấy đất nước quá tang thương vì loạn lạc và bị ngoại xâm dày xéo, ông thấy không còn con đường nào khác hơn là theo con đường kiếm cung mới mong cứu được đất nước qua cơn nguy khốn. Năm 1181, ông dấy binh khởi nghĩa, sau ròng rã bốn năm chiến đấu, ông đánh đuổi được Chiêm Thành ra khỏi đất nước mình, khôi phục lại thanh bình và xây dựng nên một đất nước hùng mạnh.

Để thực hiện sự nghiệp giải phóng đất nước, trước khi lên ngôi Jayavarman VII bắt đầu xây dựng lại quân đội, rồi tiến hành nhiều cuộc phản công, trong đó có một trận hải chiến oanh liệu miêu tả trên bức tường đá chạm nổi ở các đền Bayon và Bantay Cherma. Sau khi hoà bình được lập lại Jayavarman VII lên ngôi, lúc này ông khoảng 50 tuổi. Ông liền bắt tay vào việc khôi phục lại kinh đô và cho xây dựng ở đây một khu thành mới gọi là thành Yaxôdarapura.

Bản văn bia có thuật lại với những lời lẽ rất nên thơ "Buổi lễ đang quang của vua Jayaraman VII tổ chức năm 1181, bốn năm sau ngày thất thủ kinh đô, kinh thành Yaxodarapura giống như một cô thiếu nữ hiền hậu, xứng dôi vừa lứa với người yêu của mình, nhiệt tình và say đắm, được trang trí bằng một toà lâu đài dát vàng ngọc với những dãy thành quách bao bọc như một dãi lụa che thân: cô thiếu nữ đó được nhà vua cưới để tạo ra hạnh phúc cho muôn loài trong một buổi lễ huy hoàng, dưới đài vinh quang sáng chói."

Jayavarman VII với đền Bayon

Bayon là khu đền súc tích với những trang trí chạm khắc bằng đá đẹp đẽ. Được xây dựng trong khoảng cuối thế kỷ 12 và đầu thế kỷ 13 như là đền chính thức của vua Jayavarman VII, tin theo Phật giáo Đại thừa khác với tín ngưỡng Ấn Độ giáo như các vua trước nhưng vẫn theo truyền thống vua thần (devaraja). Vua Jayavarman VII cải giáo sang Đại thừa vì các vua đời trước nối nghiệp vua Suryavarman II theo Ấn Độ giáo, người xây dựng Angkor Wat đã để quân Chiêm Thành đánh bại. Sau khi Jayavarman VII chết, những vua nối tiếp với tín ngưỡng khác nhau như Ấn Độ giáo, Phật giáo Nguyên thủy, đã xây thêm cho ngôi đền dựa theo tín ngưỡng của mình.

Cấu trúc của Bayon gồm ba tầng mà cả ba tầng đều đổ nát nhiều, gạch đá nằm ngổn ngang khắp nơi. Hai tầng dưới bố trí theo hình vuông, tô điểm bằng những phù điêu trên tường. Tầng ba được sắp xếp theo hình tròn với nhiều tháp mà các mặt đá có hình khuôn mặt. Dãy hành lang ở tầng dưới là một kho tàng nghệ thuật với 11 ngàn bức phù điêu chạm khắc trên tường đá chạy dài 1200 mét, một tổng hợp liên quan đến lịch sử lẫn các truyền thuyết, miêu tả cảnh diễn hành của vua và hoàng gia, những trận đánh của vua Jayavarman VII với Chiêm Thành bằng cả thủy lẫn bộ chiến, ngoài ra còn miêu tả đời sống văn hóa, xã hội của một nền văn minh đã bị lãng quên từ bao thế kỷ. Nhiều khoảng tường công trình vẫn còn dở dang, chỉ còn để lại nét phát họa. Có lẽ bị bỏ dở khi vua Jayavarman VII qua đời.

Hình ảnh nổi bật nhất của Bayon vẫn là những ngọn tháp cao vút ở trung tâm bằng đá tảng, chạm khắc thành 2, 3 và chung chung là 4 khuôn mặt nhìn bốn hướng. Kiến trúc của Bayon được xem như có phong cách của trường phái baroque, trong khi Angkor thuộc phái cổ điển.

Sự tương đồng của vô số khuôn mặt khổng lồ ở trên các tháp của đền Bayon với các bức tượng khác của vua Jayavarman VII khiến nhiều học giả đi đến kết luận đây chính là khuôn mặt của nhà vua. Người khác thì cho là của Quán Âm Bồ Tát (Avalokitesvara hay Lokesvara). Nhà học giả chuyên về Angkor học Coedes thì lý luận rằng Jayavarman VII theo truyền thống của các vua Khmer tự cho mình là vua thần (devaraja), khác với các vua trước theo Ấn Độ giáo tự cho mình là hình ảnh của thần Shiva, trong khi Jayavarman VII là một Phật tử nên cho hình ảnh Phật và Bồ tát là chính mình. Có tất cả 37 tháp đền đá tạc hình nhiều khuôn mặt nhìn xuống và nhìn đi bốn hướng như thể quan sát chúng sanh và che chở cho đất nước.

Bên trong đền có hai dãy hành lang đồng tâm ở tầng dưới, và một dãy ở tầng trên. Tất cả nằm dồn lại với nhau trong một không gian hạn hẹp bề 140 m và bề 160 m, trong khi phần chính của ngôi đền nằm ở tầng trên lại còn hẹp hơn với kích thước 70 m × 80 m; khác với Angkor Wat, người ta phải trầm trồ với quy mô to lớn và thoáng rộng của nó. Từ xa nhìn vào Bayon rải dài theo chiều ngang như một đống đá lổn chổn muốn vươn lên trời cao.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Jayavarman VII** (1181? - 1220?) là vua của Đế quốc Khmer (1181-1215?), ngày nay là Campuchia. Ông là con trai của Dharanindravarman II (trị vì 1150-1160) và Sri Jayarajacudamani. Ông đã cưới Jayarajadevi và sau
**Đền Bayon** nằm ở trung tâm quần thể Angkor Thom, Campuchia. Đây là ngôi đền ấn tượng nhất của kiến trúc đền núi Campuchia do sự hùng vĩ về quy mô cũng như về cảm
**Campuchia** là một đất nước ở bán đảo Đông Dương, có lịch sử lâu đời và ảnh hưởng nền văn minh Ấn Độ. ## Các vương quốc đầu tiên Người ta biết về nước Phù
phải|nhỏ|250x250px| Hình ảnh mô tả trận [[thủy chiến Tonlé Sap giữa người Chăm và người Khmer trên phù điêu Bayon]] **Chiến tranh Đế quốc Khmer – Chăm Pa** là một loạt các cuộc xung đột
**Đế quốc Khmer** hay **Đế quốc Angkor** (tiếng Khmer cổ: ; chuyển tự Latinh: **Kambuja**) là một cựu đế quốc rộng lớn nhất Đông Nam Á với diện tích lên đến 1 triệu km², từ
nhỏ|Prasat Banteay Chmar **Banteay Chhmar** là một tổ hợp đền lớn ở tây bắc Campuchia, tỉnh Banteay Meanchey, 63 km về phía bắc của Sisophon và khá gần biên giới Thái Lan và cách Siêm Riệp
**Preah Khan** là một ngôi đền ở Angkor, Campuchia, được xây vào thế kỷ 12 cho vua Jayavarman VII. Đền này nằm ở Đông Bắc Angkor Thom và ngay phía Tây Jayatataka Baray. Preah Khan
**Ta Prohm** là tên gọi hiện đại của một ngôi đền tại Angkor, Campuchia, được xây theo phong cách Bayon phần lớn vào cuối thế kỷ 12 và đầu thế kỷ 13, ban đầu được
Tháp mặt người tại cửa Nam, tạc hình [[Quán Thế Âm]] Đền [[Bayon, Angkor Thom]] **Angkor Thom** (tiếng Khmer: អង្គរធំ) là thành phố thủ đô cuối cùng và lâu dài nhất của Đế quốc Khmer.
**Lịch sử Chăm Pa** là lịch sử các quốc gia của người Chăm gồm: Hồ Tôn, Lâm Ấp, Hoàn Vương, Chiêm Thành (_Campanagara_) và Thuận Thành (_Nagar Cam_), thành lập từ năm 192 và kết
**Phimeanakas** (Đền trời) tại Angkor, Campuchia là một ngôi đền Hindu theo phong cách Khleang được xây cuối thế kỷ 10, trong thời kỳ trị vì của vua Rajendravarman II (941-968), sau đó được xây
**Phục bích** (chữ Hán: 復辟), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế
**Người Chăm**, **người Chăm Pa** hay **người Degar-Champa** (tiếng Chăm: ꨂꨣꩃ ꨌꩌꨛꨩ, اوراڠ چامفا, _Urang Campa_; tiếng Khmer: ជនជាតិចាម, _Chónchèat Cham_; ; ), còn gọi là **người Chàm**, **người Chiêm**, **người** **Chiêm Thành**, **người Hời**,
**Người Êđê** (tiếng Êđê: **Anak Rađê** hay được dùng phổ biến theo cộng đồng là **Anak Đê** hay **Đê-Ga**) là một dân tộc có vùng cư trú truyền thống là miền trung Việt Nam và
**Sân Vua Cùi** nằm trong khu phức hợp các cụm di tích trong kinh thành Angkor Thom. Đền được xây dựng vào thế kỷ 15 và theo phong cách Bayon dưới triều vua Jayavarman VII.
Người Khmer, một trong những dân cư đầu tiên và cũng là một trong những dân tộc đầu tiên ở Đông Nam Á, chấp nhận những tư tưởng tôn giáo và các thể chế chính
**Thủy chiến Tonlé Sap** hay **Chiến tranh Khmer – Panduranga** (, ) là một biến cố ngắn diễn ra trong năm 1177, được ký ức hóa ở di tích Angkor Wat và nhiều văn bia
**Indravarman II** () là vua của Đế quốc Khmer, con trai của Jayavarman VII. Có sự tranh cãi về thời gian ông ta cai trị, vì người kế vì ông ta, Jayavarman VIII, có lẽ
Lễ hội **Bon Om Touk** (Khmer: បុណ្យអុំទូក, IPA: [bon om tuːk], còn gọi là _Lễ hội nước_, _lễ hội đua ghe_, _Um-tuk_) tại Campuchia bắt nguồn từ rất lâu trong lịch sử. Lễ hội được
**Năm 1220** là một năm trong lịch Julius. ## Sự kiện *Vương quốc Sukhothai thành lập. ## Sinh *30 tháng 5 - Aleksandr Yaroslavich Nevsky, Đại Công tước xứ Novgorod và Vladimir *1 tháng 4
**Phật giáo tại Campuchia** (, ), còn gọi là **Phật giáo Khmer**, đã tồn tại từ ít nhất là vào thế kỷ thứ 5. Ở thời kỳ mới du nhập, nó là một hình thức
**Kompong Kdei** (, phiên âm tiếng Việt: **Cầm -pông- Kơ- Đây**), còn gọi là cầu **Spean Praptos** (), là một cây cầu cổ có số tuổi gần 1000 năm, nằm trên quốc lộ số 6,
**Chăm Pa** độc lập được từ năm 192, phát triển cho đến thế kỷ thứ 10 thì bắt đầu suy yếu, đến năm 1832 thì hoàn toàn mất nước. ## Thất thủ và bỏ kinh
**Thái Lan**, gọi ngắn là **Thái**, quốc hiệu là **Vương quốc Thái Lan**, là một quốc gia ở Đông Nam Á, phía bắc giáp Lào và Myanmar, phía đông giáp Lào và Campuchia, phía nam
nhỏ|phải|Thai tạng giới [[Mạn-đà-la ()]] nhỏ|phải|Vòng Pháp luân **Nghệ thuật Phật giáo** là sự phản ánh các khái niệm trong đạo Phật dưới các hình thức nghệ thuật khác nhau – nhất là các lĩnh
**Angkor Wat** (, ) là một quần thể đền đài tại Campuchia và là di tích tôn giáo lớn nhất thế giới, rộng 162,6 hecta (1.626.000 mét vuông). Ban đầu công trình được xây dựng
**Mueang Sing** (; ) là một công viên lịch sử ở huyện Sai Yok, tỉnh Kanchanaburi, Thái Lan. Phế tích của hai ngôi đền Khmer có niên đại thế kỷ 13 và 14. Nó được
**Bảo tàng Guimet** (tiếng Pháp: _Musée national des Arts asiatiques-Guimet_ - Bảo tàng quốc gia Nghệ thuật châu Á-Guimet) là một bảo tàng về nghệ thuật châu Á ở Paris. Thuộc Quận 14 của thành
**Sân voi** (tiếng Khmer:ព្រះលានជល់ដំរី) là một công trình kiến trúc nằm bên trong khu phức hợp quần thể Angkor Thom, nơi được xem là nơi giải trí của các vua và quan dưới triều đại
**Srah Srang** là một baray tại Angkor, Campuchia, nằm về phía Nam của Đông Baray và phía Đông của Banteay Kdei. Nó được tạo dựng giữa thế kỷ 10 và được cải thiện vào thế
**Ta Som** () là một ngôi đền nhỏ ở Angkor, Campuchia, được xây dựng vào cuối thế kỷ 12 cho vua Jayavarman VII. Đền tọa lạc tại đông bắc củaAngkor Thom và ngay phía đông
**Banteay Kdei** là một ngôi đền ở Angkor, Campuchia. Ngôi đền này tọa lạc tại đông nam Ta Prohm và đông của Angkor Thom. Được xây cuối thế kỷ 12 đến đầu thế kỷ 13.
**Neak Pean** ("con rắn quấn") tại Angkor, Campuchia là một hòn đảo nhân tạo với một chùa trên một đảo hình tròn ở Preah Khan Baray được xây trong thời kỳ trị vì của vua
**Dharanindravarman II** (_Paramanishkalapada_), anh em họ của vua Suryavarman II, là vua của Đế quốc Khmer từ 1150 đế 1160. Con trai ông là Jayavarman VII sau này là một trong người xây dựng đế
**Prasat Hin Phimai** hay **Công viên lịch sử Phimai** (; ; ; ) là một khu phức hợp di tích gồm nhiều đền và những bức tượng Phật nằm trong một diện tích lớn đang
**Tonle Bati** là một hồ nhỏ cách Phnôm Pênh 30 km về phía nam. Đây là nơi nghỉ cuối tuần nổi tiếng của thành phố. Gần hồ có ngôi đền Ta Prohm được xây dựng vào
:''Xem các mục từ khác cũng có tên Sukhothai tại Sukhothai. **Vương quốc Sukhothai** (tiếng Thái: อาณาจักรสุโขทัย, phát âm như _A-na-chặc Xụ-khổ-thai_; Hán-Việt: **Tố Khả Thái** 素可泰, phiên âm tiếng Việt: **Su-khô-thay**) là một vương
**Louangphabang** (còn viết là **Luang Prabang**, ; phiên âm tiếng Việt: **Luông-Pha-Băng**) là một tỉnh của nước Lào, thuộc địa phận miền bắc. Tỉnh lị của tỉnh, Luang Prabang, từng là cố đô của Vương
**Louangphabang** (Lào: ຫລວງພະບາງ) hoặc **Luang Phabang** (phát âm ), thường được chuyển tự sang các ngôn ngữ phương Tây từ cách viết trong tiếng Lào trước năm 1975 ຫຼວງພຣະບາງ (ຣ = r) là **Luang Prabang**,
**Siem Reap** (, ; , trong tiếng Việt cũng viết theo phiên âm là **Xiêm Riệp**) là thành phố tỉnh lỵ tỉnh Siem Reap, nằm ở tây bắc Campuchia. Địa danh này theo tiếng Khmer
**Siem Reap** (សៀមរាប, phiên âm tiếng Việt là **Xiêm Riệp**) là một tỉnh tây bắc Campuchia, bên bờ của hồ Tonlé Sap. Tỉnh lỵ của tỉnh này là thành phố Siem Reap. Tên Siem Reap
**Vương quốc Lavo** (tiếng Thái: เมืองละโว้; Hán-Việt: **La Oa** 羅渦) là một thể chế chính trị ở tả ngạn sông Chao Phraya trong thung lũng Thượng Chao Phraya, tồn tại từ khoảng thế kỷ 7
**Năm 1219** là một năm trong lịch Julius. ## Sự kiện ## Sinh ## Mất * 13 tháng 2 - Minamoto no Sanetomo, shogun Nhật Bản (sinh 1192) * 5 tháng 5 - King Leo
**Bang giao Đại Việt thời Lý** phản ánh các hoạt động ngoại giao của chính quyền nhà Lý từ năm 1009 đến năm 1225 trong lịch sử Việt Nam. ## Hoàn cảnh Năm 1009, Lý
**Jaya Paramesvaravarman II** là vua của Chiêm Thành từ 1220 đến 1254 sau khi người Chân Lạp rút khỏi Chiêm Thành năm 1220. ## Tiểu sử Ông là cháu của vua Jaya Harivarman I, nhưng
**Pha Mueang** (tên đầy đủ là **Pho Khun Pha Mueang**, , cuối thế kỷ 13 - giữa thế kỷ 14) là một nhà quý tộc Thái Lan và là tướng lãnh của Rad và đóng
thumb|Bản đồ hệ thống đường xá Khmer cổ đại của [[Đế quốc Khmer]] **Xa lộ Khmer cổ đại** (tiếng Khmer: ផ្លូវបុរាណខ្មែរ) là một con đường dài hướng về phía tây bắc nối liền Angkor (ở
**Jaya Indravarman IV** (tiếng Phạn: जय इन्द्रवर्मन् ८) là một vị vua Champa của triều đại thứ 11, cai trị từ năm 1167 đến năm 1192. ## Tiểu sử Ông và Po Klong Garai (vua
**Khu di tích Gò Tháp** là một di tích quốc gia đặc biệt, nằm trên địa bàn hai xã Mỹ Hòa và Tân Kiều, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp, cách Mỹ An (huyện lỵ)