✨Lực lượng đặc biệt Khmer

Lực lượng đặc biệt Khmer

Lực lượng đặc biệt Khmer (tiếng Anh: Khmer Special Forces (KSF) hoặc Forces Speciales Khmères (FSK) trong tiếng Pháp) là đơn vị biệt kích tinh nhuệ của Lực lượng Vũ trang Quốc gia Khmer (FANK) trong cuộc nội chiến Campuchia 1970–1975.

Lịch sử hình thành

Lực lượng đặc biệt Khmer chính thức thành lập vào tháng 10 năm 1971, khi Liên đoàn biệt kích số 1 (nhảy dù) được tổ chức tại Phnôm Pênh dưới sự chỉ huy của Trung tá Thach Reng. Hai nhóm biệt kích khác là Liên đoàn biệt kích số 2 (nhảy dù) và Liên đoàn biệt kích số 3 (nhảy dù) được xây dựng và trang bị vào năm sau.

Dưới sự bảo trợ của chiến dịch "Freedom Runner" một chương trình huấn luyện cho FANK do lực lượng đặc biệt Mỹ (USSF) thiết lập vào tháng 11 năm 1971, các nhóm biệt kích Khmer bắt đầu được gửi đến Nam Việt Nam để tham dự các khóa học nhảy dù tại Trung tâm huấn luyện nhảy dù Long Thành và khóa học về biệt kích tại Trung tâm huấn luyện Động Ba Thìn của lực lượng đặc biệt quân lực Việt Nam Cộng hòa gần vịnh Cam Ranh. Nhân lực do biệt đội USSF B-51 cung cấp, được sự hỗ trợ của các huấn luyện viên quân đội New Zealand từ Nhóm huấn luyện quân đội New Zealand số 2 ở Việt Nam (2 NZATTV) và phỏng theo chương trình huấn luyện của biệt kích Mỹ-Việt Nam Cộng hòa, các khóa học bắt đầu với bốn tuần lễ học về những kỹ năng biệt kích cơ bản tiếp theo là huấn luyện một trong sáu kỹ năng của nghề biệt kích: hành quân và hoạt động tình báo, phá hủy vũ khí hạng nhẹ, hạng nặng, truyền tin và cứu thương. Các khóa học nâng cao bổ sung khác bao gồm chiến tranh tâm lý, chiến tranh chính trị, kỹ thuật chống tăng và võ thuật. Hai tuần lễ thực hành trận địa bắn đạn thật (đôi khi bổ sung thêm cuộc hành quân dã chiến chống lại lực lượng quân đội Bắc Việt/Việt Cộng tại các khu vực xung quanh trung tâm huấn luyện) thì coi như đã hoàn thành khóa học biệt kích.

Nhiều khóa huấn luyện biệt kích chuyên ngành được thực hiện tại Mỹ và Thái Lan kể từ tháng 12 năm 1972. Những học viên biệt kích quân Khmer được tham dự các khóa học kỹ thuật tại Fort Bragg, Bắc Carolina bởi Liên đoàn biệt kích số 5 USSF và tại Trung tâm chiến tranh đặc biệt của quân đội Hoàng gia Thái Lan (RTA) ở Ft. Narai, tỉnh Lopburi bởi Đại đội biệt kích số 46 Mỹ; có bổ sung thêm những kỹ năng du kích và biệt kích do những huấn luyện viên đến từ lực lượng đặc biệt quân đội Hoàng gia Thái Lan (RTSF) và đơn vị không yểm cảnh sát Hoàng gia Thái Lan (PARU) tại các trại huấn luyện Phitsanulok và Hua Hin về sau. Các khóa học về biệt động, viễn thám và truyền tin nâng cao được đưa vào đầu năm 1973 tại Trường huấn luyện do thám (tiếng Anh: Recondo School) thuộc Bộ chỉ huy Viện trợ Quân sự Mỹ tại Việt Nam (MACV) ở Nha Trang, Nam Việt Nam, nhân lực do biệt đội USSF B-36 cung cấp và tại Trường huấn luyện do thám của RTA cũng đặt tại Ft. Narai, Thái Lan, trước khi chiến dịch "Freedom Runner" chính thức kết thúc vào tháng 7 năm đó.

Cơ cấu và tổ chức

Lực lượng đặc biệt Khmer được mô phỏng sát sao theo kiểu Mỹ chỉ sau lực lượng đặc biệt Hoa Kỳ (USSF) và lực lượng đặc biệt Việt Nam Cộng hòa (LLDB). Lực lượng đặc biệt Khmer được tổ chức vào tháng 7 năm 1973, phân thành một biệt đội 'C' đóng vai trò là Sở chỉ huy cùng với 3 biệt đội 'B' và 18 biệt đội 'A' tổ chức thành ba Liên đoàn biệt kích (SFG). Không giống như Biệt đội A của người Mỹ, các biệt đội 'A' của biệt kích Khmer có thể tung ra chiến trường với quân số lên đến 15 người, nhân viên được bổ sung thêm vào là các chuyên gia tâm lý chiến. Họ được biên chế như sau: *33 người thuộc Biệt đội 'C' dưới sự chỉ huy cá nhân của Trung tá Thach Reng, gồm 25 người biệt đội 'B' chia tách thành năm biệt đội 'A' với quân số 15 người đóng tại thủ đô Campuchia và đảm nhiệm vai trò là trụ sở Bộ Tư lệnh Lực lượng đặc biệt Khmer. *Liên đoàn biệt kích số 1* (tiếng Anh: 1st Special Forces Group) dưới sự chỉ huy của Thiếu tá Kim Phong, tạo thành một biệt đội 'B' 25 người và sáu biệt đội 'A' 15 người (A-111, A-112, A-113, A-114, A-115, A-116) được triển khai tại tỉnh Battambang. Liên đoàn biệt kích số 2** (tiếng Anh: 2nd Special Forces Group) dưới sự chỉ huy của Đại úy Sok Thach gồm biệt đội B-12 và sáu biệt đội 'A' (A-121, A-122, A-123, A-124, A-125, A-126) trú đóng tại Phnôm Pênh. *Liên đoàn biệt kích số 3 (tiếng Anh: 3rd Special Forces Group) dưới sự chỉ huy của Đại úy Thach Saren gồm biệt đội B-13 và sáu biệt đội 'A' (A-131, A-132, A-133, A-134, A-135, A-136). Liên đoàn biệt kích số 3 được trao trách nhiệm cho các hoạt động hành quân xung quanh thủ đô, dọc theo hành lang hạ lưu sông Mekong-Bassac và vùng bờ biển Campuchia.

Kết cấu

Những thành viên của lực lượng đặc biệt Khmer hầu hết đều là tình nguyện viên có trình độ lính nhảy dù, mặc dù hầu hết các cán bộ ban đầu được hình thành từ những tân binh người Khmer "hồi hương" thuộc dân tộc thiểu số Khmer Krom sống ở miền Nam Việt Nam. Theo truyền thống tích cực mà Khmer Krom mang lại với kinh nghiệm chiến đấu nhiều năm của họ đã đạt được trong khi chiến đấu trong lực lượng xung kích Mike Force chống nổi dậy ngoại lệ và các đơn vị Dân Sự Chiến Đấu ở Nam Việt Nam dưới sự kiểm soát của USSF và MACV-SOG. Chương trình bắt đầu vào tháng 5 năm 1970 khi người Mỹ tập hợp 2.000 cựu binh Khmer Krom khóa đầu tiên và vận chuyển họ sang Campuchia. Do đó vào tháng 2 năm 1972, cả Liên đoàn biệt kích số 1 (tuyển mộ tại Campuchia) và Liên đoàn biệt kích số 2 (thành lập và huấn luyện ở Thái Lan) có tỷ lệ phần trăm lớn người Khmer Krom hồi hương, nhưng dần dần phương thức tuyển dụng tân binh người Campuchia bản xứ đã bắt đầu được thay thế nhóm Khmer Krom. Không giống như hai nhóm Liên đoàn biệt kích số 3 trước đó, mang số quân hiện có vào tháng 12 năm 1972 và được gửi sang huấn luyện ở Thái Lan, chỉ vài thành viên Khmer Krom là có kinh nghiệm.cc Trên thực tế, một biệt đội A đã được lấp đầy hoàn toàn bằng đồng bào vùng cao người Khmer Loeu định cư ở đông bắc Campuchia.

Nhiệm vụ

Nhiệm vụ do lực lượng đặc biệt Khmer thực hiện trong thời kỳ chiến tranh rất nhiều và đa dạng, khác nhau, từ trinh sát tầm xa chiến lược và chiến thuật cho tới các cuộc đột kích thâm nhập sâu, dò đường và tăng cường viện binh. Trong vai trò đào tạo không theo quy ước của các lực lượng đặc biệt, họ cũng xây dựng lực lượng bán quân sự gồm dân quân tự vệ làng trong các khu vực nông thôn nằm sau phòng tuyến đối phương, cũng như phụ trách việc huấn luyện tiểu đoàn an ninh sân bay cho Không quân Quốc gia Khmer (KAF) tại trung tâm huấn luyện bộ binh Ream. Ngoài ra, lực lượng đặc biệt Khmer còn cung cấp huấn luyện viên tuần tra viễn thám cho trường huấn luyện do thám tại Battambang đầu tiên được mở vào năm 1972.

Chiến sử

Tham chiến (1971–1974)

Bên cạnh chiến tranh ngoại lệ và các hoạt động huấn luyện, lực lượng đặc biệt Khmer còn được tham gia vào một số cuộc hành quân chiến đấu đáng chú ý với sự hỗ trợ của quân đội chính quy FANK. Nhiệm vụ chiến đấu đầu tiên của lực lượng đặc biệt Khmer xảy ra vào tháng 5 năm 1972, khi họ tham gia vào hoạt động tìm và diệt cùng với các đơn vị quân đội xung quanh Phnôm Pênh tiến hành truy quét các nhóm pháo binh hạng nhẹ ở vùng ngoại ô phía bắc thủ đô của Khmer Đỏ và quân đội Bắc Việt, những kẻ đã quấy rối một phần tư thủ đô Campuchia với rocket 122 ly và súng trường không giật 75 ly.

Vào tháng 9 năm 1973, các lực lượng đặc biệt Khmer chỉa mũi nhọn tấn công kết hợp với chiến dịch đổ bộ của FANK-MNK nhằm chiếm lại thủ phủ của tỉnh Kampong Cham, nơi bị Khmer Đỏ đột chiếm vào tháng 8. Trước cuộc tấn công, hai biệt đội 'A' được đưa bằng trực thăng vào hướng nam của thành phố đã bị loạn quân chiếm giữ và sử dụng những quả rốc két LAW nhằm vô hiệu hóa đồn lũy của đối phương. Vai trò của các nhóm lực lượng đặc biệt Khmer tại trận vây hãm Kampong Cham không bị giới hạn tới những nhiệm vụ chiến đấu, tuy nhiên những người điểu khiển vô tuyến của họ cũng hỗ trợ phối hợp với Không quân Quốc gia Khmer trong việc thực hiện các cuộc không yểm xuống thay mặt cho các đơn vị lục quân FANK bảo vệ thành phố mới tái chiếm.

Vai trò điều phối này lại một lần nữa trở lại vào tháng 7 năm 1974 trong cuộc bao vây thủ phủ huyện Kampong Seila tại tỉnh Koh Kong, nằm ở khoảng 135 km (84 dặm) về phía tây nam Phnôm Pênh, xuống đường quốc lộ số 4. Vào thời điểm đó, thị trấn nhỏ này và đơn vị đồn trú của chính quyền đang bị lực lượng Khmer Đỏ bao vây phải chịu đựng một cuộc bao vây kéo dài kỷ lục tám tháng, hậu quả khiến cho phần lớn dân cư địa phương phải lâm vào nạn đói. Bị trệch hướng từ thông tin liên lạc tiêu chuẩn của quân đội Campuchia, các đơn vị đồn trú đã tuyệt vọng kêu gọi cứu trợ từ Phnôm Pênh qua vô tuyến, trên thực tế là khơi dậy sự nghi ngờ trong Bộ Tư lệnh FANK. Lo sợ rằng lực lượng cứu trợ của chính phủ sẽ bị dụ vào một cái bẫy, chính quyền quyết định gửi các quan sát viên đầu tiên tới đánh giá tình hình tại Kampong Seila và để xác minh sự trung thành của các đơn vị đồn trú. Sau hai nỗ lực không thành công, các đội lực lượng đặc biệt Khmer được trực thăng bốc thả vào thị trấn và sau khi xác nhận các báo cáo, chiến dịch không yểm được phê chuẩn nhằm làm giảm bớt nạn đói và cho phép các đơn vị đồn trú của quân đội trụ vững để chống lại sức ép của quân nổi dậy.

Tàn cuộc (1974–1975)

Tới tháng 3 năm 1975 thì tất cả các tuyến đường bộ và đường thủy dẫn đến Phnôm Pênh đều bị cắt đứt, toàn quân Khmer Đỏ đã bắt đầu cuộc tổng tiến công cuối cùng vào thủ đô Campuchia. Ngoài trừ ba biệt đội 'A' đang hoạt động tại Battambang và hai ở Xiêm Riệp, còn phần lớn binh sĩ của lực lượng đặc biệt Khmer dưới sự chỉ huy của Chuẩn tướng Thach Reng đã rút về Phnôm Pênh để hỗ trợ trong việc phòng thủ thủ đô. Hai đội bảo vệ Sân vận động Olympic tại khu phức hợp thể thao Cércle Sportif, nơi bảy chiếc trực thăng vận tải UH-1H của Không lực Khmer được giữ lại để sơ tán các thành viên chủ chốt của chính phủ. Chuẩn tướng Reng và cấp dưới của ông đã lên kế hoạch cho một cuộc phá vây lớn bằng bộ binh sang phía đông nam theo hướng biên giới Nam Việt Nam. Mặc dù lực lượng đặc biệt Khmer đã đào thoát và lẻn ra trên khắp các vùng ngoại ô phía nam thủ đô, nhưng họ chưa bao giờ tới được vùng biên giới và hầu hết đều bị xem là thiệt mạng trong chiến đấu.

Vũ khí và trang bị

Lực lượng đặc biệt Khmer sử dụng các loại vũ khí và trang bị tiêu chuẩn xuất xứ từ Mỹ cấp cho các đơn vị FANK, được bổ sung bằng cách thu giữ các loại vũ khí nhỏ của Liên Xô hay Trung Quốc như súng trường tấn công AK-47 cho phép các binh sĩ của lực lượng đặc biệt sử dụng đạn dược lấy từ những nơi giấu vũ khí của đối phương trong khi hành quân.

  • FN GP35 Súng lục
  • Colt.45 M1911 Súng lục
  • Smith & Wesson mẫu 39 Súng lục ổ quay
  • TT-33 Súng lục
  • Kiểu 56 Súng trường tấn công
  • Kiểu 56-1 Súng trường tấn công
  • AKM Súng trường tấn công
  • M16A1 Súng trường tấn công
  • CAR-15 Súng carbine tấn công
  • Ithaca mẫu 37 Shotgun lên đạn bằng kiểu bơm khí
  • RPD Tiểu liên
  • LMG kiểu 56 Tiểu liên
  • M60 Súng máy đa năng
  • RPG-2 Súng chống tăng
  • RPG-7 Súng chống tăng
  • M72 LAW Súng phóng lựu chống tăng
  • M79 Súng phóng lựu
  • M203 Súng phóng lựu
  • M29 Súng cối
  • M18 Claymore Mìn chống người
👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lực lượng đặc biệt Khmer** (tiếng Anh: _Khmer Special Forces_ (KSF) hoặc _Forces Speciales Khmères_ (FSK) trong tiếng Pháp) là đơn vị biệt kích tinh nhuệ của Lực lượng Vũ trang Quốc gia Khmer (FANK)
**Tiểu đoàn Biệt kích dù Campuchia** (tiếng Pháp: _Battaillon de Commandos Parachutistes – BCP_) là một trong những đơn vị lực lượng đặc biệt chính của Lực lượng Vũ trang Quốc gia Khmer (tiếng Pháp:
**Lực lượng Vũ trang Quốc gia Khmer** hoặc **Quân lực Quốc gia Khmer** (tiếng Pháp: _Forces Armées Nationales Khmères_ - FANK), là lực lượng quốc phòng vũ trang chính thức của nước Cộng hòa Khmer,
**Lục quân Quốc gia Khmer** (tiếng Pháp: _Armée Nationale Khmère_ - ANK; tiếng Anh: _Khmer National Army_ - KNA) là quân chủng lục quân Quân lực Quốc gia Khmer (FANK) và là lực lượng quân
**Lực lượng biệt kích Hoa Kỳ và đồng minh trong Chiến tranh Việt Nam** nói về những đơn vị quân sự đặc biệt trong Chiến tranh Việt Nam hoạt động dưới sự điều hành trực
**Biệt đội Hải cẩu Campuchia** hay còn gọi là **Lực lượng đột kích SEAL Campuchia** (tiếng Anh: _Cambodian Navy SEALs_) là lực lượng đặc nhiệm hải quân chính của Hải quân Quốc gia Khmer (tiếng
**Không quân Quốc gia Khmer** (tiếng Pháp: _Armée de l'Air Khmère_ – AAK; tiếng Anh: _Khmer National Air Force_ - KNAF hoặc KAF) là quân chủng không quân Quân lực Quốc gia Khmer (FANK) và
**Lục quân Hoàng gia Campuchia** là một bộ phận của Quân đội Hoàng gia Campuchia với quân số khoảng 75.000 biên chế thành 11 sư đoàn bộ binh được trang bị thiết giáp tích hợp
**Lực lượng đổ bộ đường không** (còn gọi là **Binh chủng Nhảy dù**) là một trong 8 binh chủng thuộc Quân chủng Phòng không - Không quân, Quân đội nhân dân Việt Nam có chức
**Quân đội Hoàng gia Campuchia** (; , **RCAF**) là lực lượng quân sự quốc gia của Campuchia, gồm có Lục quân, Hải quân, Không quân và Lực lượng Hiến binh. Về danh nghĩa, Quốc vương
nhỏ|Trụ sở chính của Tòa đặc biệt **Tòa đặc biệt Tòa án Campuchia** (tiếng Anh: ; tiếng Pháp: , **CETC**; tiếng Khmer: , _angk chomnoumchomreah visaeamonhnh knong tolakar kampouchea_), còn được gọi là **Tòa án
**Lực lượng Không quân Cường kích** là một binh chủng thuộc Quân chủng Phòng không-Không quân - Quân đội nhân dân Việt Nam, có chức năng sử dụng các máy bay cường kích nhằm thực
**Khmer Đỏ** (tiếng Campuchia: ខ្មែរក្រហម, ) là tên gọi dành cho thế lực và tổ chức chính trị cực tả cầm quyền tại Campuchia từ 1975 đến 1979 dưới sự lãnh đạo công khai của
**Cộng hòa Khmer** (, ) là một nước cộng hòa đầu tiên của Campuchia. Thời Việt Nam Cộng hòa thường được gọi là _Cộng hòa Cao Miên_ hay _Cao Miên Cộng hòa_, được thành lập
**Dien Del** (15 tháng 5 năm 1932 – 13 tháng 2 năm 2013) là tướng lĩnh Campuchia, từng chỉ huy những cuộc hành quân tham chiến trong chiến tranh Việt Nam tại Campuchia và cuộc
**Kun Khmer** (tiếng Khmer: គុនខ្មែរ [kun kʰmae]) hay còn gọi là **Pradal Srey** (tiếng Khmer: ប្រដាល់សេរី [prɑɗal seːrəj]) là môn võ truyền thống của Campuchia có từ thời đại Angkor. Trong tiếng Khmer, từ _Kun_
**Phân biệt chủng tộc ở châu Á** bắt nguồn từ những sự kiện đã xảy ra ở khắp nơi từ hàng ngàn năm trước cho đến nay. ## Bangladesh Vào năm 2015, Elias Mollah, thành
**Người Khmer tại Việt Nam** là bộ phận dân tộc Khmer ở Việt Nam, người Khmer là dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng Đồng bằng Sông Cửu Long. Người Khmer được công nhận
**Tổng cục Chiến tranh Chính trị** là cơ quan tuyên truyền, ban đầu trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam Cộng hòa. Cơ quan này được thành lập dưới thời Đệ Nhất Cộng hòa với
**Lữ đoàn 70** hoặc B-70 là đơn vị bảo vệ VIP tinh nhuệ phụ trách an ninh cá nhân cho Thủ tướng Campuchia Hun Sen, về sau được chuyển đổi thành Nhóm Cận vệ của
**Chiến tranh biên giới Việt Nam – Campuchia**, hay còn được gọi là **Chiến tranh biên giới Tây Nam**; , UNGEGN: _Sângkréam Kâmpŭchéa-Viĕtnam_; Những người theo chủ nghĩa dân tộc Khmer gọi là **Việt
**Mặt trận Thống nhất Đấu tranh của các Sắc tộc bị Áp bức**, hoặc **FULRO** (đọc là _Phun-rô_, tiếng Pháp: _Front Uni de Lutte des Races Opprimées_) là liên minh chính trị - quân sự
**Chiến dịch Eagle Pull** (tạm dịch: _Chiến dịch Đại Bàng Quắp_) là chiến dịch di tản trên không do Mỹ tiến hành ở thủ đô Phnôm Pênh, Campuchia vào ngày 12 tháng 4 năm 1975.
**Binh chủng Hải quân Đánh bộ** là một binh chủng thuộc Quân chủng Hải quân Việt Nam có nhiệm vụ đóng quân bảo vệ các đảo, đá hoặc tấn công, đổ bộ bằng đường biển
Khmer Issarak đã chọn một lá cờ nền màu đỏ với hình bóng Angkor Wat có năm ngọn tháp màu vàng. Lá cờ này về sau được [[KUFNS lấy làm quốc kỳ chính thức của
**Đặng Trần Đức** (19 tháng 10 năm 192226 tháng 3 năm 2004; sinh tại Thanh Trì, Hà Nội), bí danh **Ba Quốc** – **3Q**, tên công khai khi hoạt động tình báo tại Sài Gòn
nhỏ|Đền Angkor Wat tại Campuchia **Đảo chính Campuchia 1970** (Khmer: រដ្ឋប្រហារកម្ពុជាឆ្នាំ១៩៧០) là hành động quân sự của nhóm quan chức thân Mỹ nhằm lật đổ chính phủ của Hoàng thân Norodom Sihanouk, sau một cuộc
Chôl Chnăm Thmây có nghĩa là “vào năm mới”. Theo quan niệm của người Khmer, đây là thời điểm giao mùa, vạn vật sinh sôi, mang đến sự tươi mới và hy vọng cho một
Chôl Chnăm Thmây có nghĩa là “vào năm mới”. Theo quan niệm của người Khmer, đây là thời điểm giao mùa, vạn vật sinh sôi, mang đến sự tươi mới và hy vọng cho một
Chôl Chnăm Thmây có nghĩa là “vào năm mới”. Theo quan niệm của người Khmer, đây là thời điểm giao mùa, vạn vật sinh sôi, mang đến sự tươi mới và hy vọng cho một
nhỏ|Cảnh sát Quốc gia Campuchia **Cảnh sát Quốc gia Campuchia** hay **Công an Quốc gia Campuchia** (tiếng Anh: _Cambodian National Police_), gọi tắt là **Công an Campuchia**, là lực lượng cảnh sát trực thuộc Bộ
**Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam** (phía Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa và các đồng minh thường gọi là **Việt Cộng**) là một tổ chức liên minh chính trị hoạt
thế=Một Võ sư Võ cổ truyền Việt Nam.|nhỏ|Một [[Võ sư Võ cổ truyền Việt Nam.|225x225px]] **Võ thuật** là hệ thống được mã hóa và truyền thống chiến đấu được thực hành vì một số lý
**BAJARAKA** (chữ viết tắt tên bốn sắc tộc: Bahnar, Jarai, Rhadé và Kaho) là phong trào phản đối chính sách phân biệt đối xử người Thượng trên Cao nguyên Trung phần của chính quyền Việt
**Santebal** (សន្តិបាល) trong tiếng Khmer ghép giữa "santisuk" an toàn và "norkorbal" cảnh sát, là lực lượng cảnh sát mật ra đời dưới chế độ Khmer Đỏ tại Campuchia. Santebal phụ trách an ninh nội
thumb|Tranh Bà Triệu cưỡi voi **Voi chiến** là voi được huấn luyện dưới sự chỉ huy của con người để giao chiến. Mục đích chính là tấn công đối phương, giày xéo và phá vỡ
Can Mộc Linh Của Đông Y Sĩ Phạm Bằng.Vị Danh y miền sông nước:Người bênh gan sắp chếtđều... sống lạiRất nhiềubênh nhân viêm gan, xơ gan cổ trướng, bụng to như cái rổ, bị bênh
Can Mộc Linh Của Đông Y Sĩ Phạm Bằng.Vị Danh y miền sông nước:Người bênh gan sắp chếtđều... sống lạiRất nhiềubênh nhân viêm gan, xơ gan cổ trướng, bụng to như cái rổ, bị bênh
Những cư dân bản địa của khu vực Tây Nguyên Việt Nam là người Thượng (Đêga). Người Việt (Kinh) đã chinh phục Tây Nguyên trong quá trình Nam tiến. Hiện nay, dân số người Việt
**Sư đoàn 2 Quảng - Đà**, còn gọi là "**Sư đoàn 2 Thép**" thời chiến tranh Việt Nam là sư đoàn bộ binh cơ động nổi tiếng của Quân đội nhân dân Việt Nam. Được
**Cảnh sát Dã chiến Quốc gia Việt Nam Cộng hòa** (, viết tắt _CSDC_) cũng được người Pháp gọi là **Police de Campagne** và có nhiều tên gọi khác nhau là **Cảnh sát Dã chiến
**Nguyễn Phước Tân** (1930-2007), tên thật **Nguyễn Văn Chẩn**, bí danh: **Hai Tân**, **Bảy Chẩn**, **Bảy Hưởng**, là một Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Trung tướng Công an nhân dân Việt Nam.
Nhờ chuyển đổi sản xuất từ cây lúa đơn thuần sang trồng nhiều loại nấm dược liệu, đặc biệt là nấm mối đen, chị Châu Thị Nương (ngụ xã Tà Đảnh, huyện Tri Tôn, tỉnh
**Cần Giờ** là một huyện ngoại thành ven biển cũ thuộc Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. ## Địa lý ### Vị trí địa lý Cần Giờ là huyện duy nhất giáp biển ở
## Thân thế Ông sinh năm 1928 ra trong một gia đình nghèo quê ở xã Hậu Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Gia đình có 9 anh em, ông là thứ tư. Năm
**Ngô Quang Tảo** (sinh 1932- Từ Trần ngày 01/3/2020) là Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân,Thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam, nguyên Trưởng đoàn chuyên gia 9902 của Việt Nam tại
**Nguyễn Đình Khoa** (sinh 1940) là một phi công Không quân Nhân dân Việt Nam, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Nguyên Tham mưu phó Quân chủng Không quân, Phó Tổng giám đốc-
**Chiến tranh biên giới 1979**, hay thường được gọi là **Chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979**, là một cuộc chiến ngắn nhưng khốc liệt giữa Trung Quốc và Việt Nam, diễn ra
**Nội chiến Campuchia** là cuộc chiến giữa lực lượng của Đảng Cộng sản Campuchia (được biết đến với tên gọi Khmer Đỏ) và đồng minh của họ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt
nhỏ|phải|Mùa nước nổi ở An Giang **Khu hệ cá nước ngọt ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long** hay còn gọi đơn giản là **cá miền Tây** là tập hợp các loài cá nước ngọt