✨Người Xtiêng

Người Xtiêng

Người Xtiêng hay còn gọi là người Stiêng hay Giẻ Xtiêng (không nhầm với người Giẻ Triêng) là một dân tộc trong số 54 dân tộc tại Việt Nam.

Người Xtiêng nói tiếng Xtiêng, một ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer trong ngữ hệ Nam Á. Ngôn ngữ thứ hai là ngôn ngữ phổ thông tại quốc gia nơi họ cư trú, là tiếng Việt hoặc tiếng Khmer.

Dân số và địa bàn cư trú

Dân tộc Xtiêng có dân số khoảng 66.788 người (1999), cư trú tập trung tại một số huyện thuộc các tỉnh Bình Phước, Đồng Nai và Tây Ninh (chiếm trên 99,3%).

Tại Campuchia có khoảng 6.500 người Xtiêng, theo Điều tra dân số Campuchia năm 2008. (Xem: Khmer Loeu).

Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, người Xtiêng ở Việt Nam có dân số 100.752 người, có mặt tại 34 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Xtiêng cư trú tập trung tại tỉnh Bình Phước (81.708 người, chiếm 95,6% tổng số người Xtiêng tại Việt Nam), Tây Ninh (1.654 người), Đồng Nai (1.269 người), Lâm Đồng (380 người), Bình Dương (153 người)...

Đặc điểm kinh tế

Về hình thái kinh tế, có thể tạm chia dân tộc này thành hai nhóm là nhóm Bù Đéc ở vùng thấp, biết làm ruộng nước và dùng trâu, bò kéo cày từ khá lâu và nhóm Bù Lơ ở vùng cao, làm rẫy là chủ yếu, sống gần gũi với người M'Nông, người Mạ.

Thức ăn chủ yếu của họ là gạo, rau, cá, tôm. Trước đây người Xtiêng thường ăn bằng tay nhưng gần đây đã ăn bằng bát đĩa. Họ hay dùng rượu cần trong dịp hội hè.

Tổ chức cộng đồng

Ngày nay người Xtiêng ở nhiều nơi đã định canh định cư, từng gia đình làm nhà ở riêng. Họ Điểu là họ phổ biến khắp vùng Xtiêng. Làng Xtiêng có truyền thống tự quản, đứng đầu là một già làng am hiểu tập tục, có uy tín lớn, tháo vát và thường là người giàu có ở làng. Mức giàu được tính bằng tài sản như: trâu, bò, chiêng, cồng, ché, vòng, trang sức và còn rất nhiều thứ khác nữa

Người Xtiêng ưa thích âm nhạc, nhạc cụ thường thấy nhất là bộ chiêng sáu cái. Chiêng không được gõ ở ngoài nhà, trừ ngày lễ đâm trâu. Chiêng dùng trong hội lễ, cả trong bộc lộ tình cảm, hòa giải xích mích giữa các gia đình. Ngoài chiêng còn có cồng, khèn bầu cũng được người Xtiêng ưa thích. Cuối mùa khô, họ hay chơi thả diều.

Hôn nhân gia đình

Người Xtiêng lấy vợ, lấy chồng khác dòng họ. Thông thường con trai từ tuổi 19-20, con gái từ tuổi 15-17 bắt đầu tìm bạn đời.Tùy theo vùng miền mà các chàng trai người Xtiêng lấy vợ lấy chồng sẽ ở rể hoặc về nhà chồng; các khu vực Phước Long; Phú Riềng; Bù Gia Mập; Bù Đăng...sau khi lấy nhau con gái sẽ về nhà chồng. Khu vực Bình Long; Hớn Quản... con trai sẽ ở rể.

Nhà cửa

Nhà ở của người Xtiêng không đồng nhất giữa các khu vực. Chẳng hạn ở Bù Lơ người Xtiêng sống trong nhà đất dài với gia đình lớn theo chế độ phụ hệ; ở Đắc Kia người Xtiêng cư trú trong nhà sàn, nha nua va nhà đất ngắn với gia đình nhỏ; ở Bù Đeh người Xtiêng lại sống trong nhà sàn dài với gia đình lớn theo chế độ mẫu hệ.

Bộ khung nhà người Xtiêng dù nhà sàn hay đất đều trên cơ sở vì hai cột (không có kèo). Căn cứ vào cấu tạo của bộ khung nhà đất của người Xtiêng hiện nay còn thấy thì nhà đất của người Xtiêng là rất thô sơ. Nhà đất của người Xtiêng chỉ như là một cái chòi, mái được kéo gần sát mặt đất. Cửa ra vào rất thấp, mở ở hai đầu hồi và một cửa ở mặt trước nhà, mái trên cửa cũng phải cắt bớt hoặc làm vòng lên như ở nhà người Mạ.

Trang phục

Trang phục của người Xtiêng khá đơn giản, đàn bà mặc váy, đàn ông đóng khố. Mùa đông người ta choàng một tấm vải để chống rét. Người Xtiêng để tóc dài búi sau gáy, tai xâu lỗ, hoa tai bằng gỗ, ngà voi và xăm mặt, xăm mình với những hoa văn giản đơn. Mọi người nam, nữ, già, trẻ đều thích đeo các loại vòng. Trẻ em nhỏ đeo lục lạc ở hai cổ chân.

Người Xtiêng có danh tiếng

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Người Xtiêng** hay còn gọi là **người Stiêng** hay **Giẻ Xtiêng** (không nhầm với người Giẻ Triêng) là một dân tộc trong số 54 dân tộc tại Việt Nam. Người Xtiêng nói tiếng Xtiêng, một
**Lễ hội cầu mưa** (người Xtiêng) là một lễ hội của người đồng bào dân tộc Xtiêng. Là lễ hội rất quan trọng, do đó công việc chuẩn bị phải chu đáo ## Thời gian
**Tên người Việt Nam** được các nhà nghiên cứu cho rằng bắt đầu có từ thế kỷ 2 TCN và càng ngày càng đa dạng hơn, trong khi có ý kiến khác cho rằng: "sớm
**Tiếng Xtiêng** (tiếng Khmer: ស្ទៀង) hay tiếng Stiêng là ngôn ngữ của người Xtiêng ở miền nam Việt Nam và các khu vực lân cận của Campuchia và có thể là Lào (dưới tên Tariang).
**Bro** là một loại nhạc cụ có dây phổ biến ở một số dân tộc Tây Nguyên ở Việt Nam. Người Ba Na, Xơ Đăng, Êđê, Gia Rai và Giẻ Xtiêng thường sử dụng nhạc
**Lễ hội Hao Trol Va** hay **Lễ hội lên nhà lúa** là một lễ hội của người đồng bào dân tộc Xtiêng. Màu sắc tín ngưỡng phồn thực nông nghiệp. Hiện thất truyền, đang có
Đây là danh sách các phát minh và khám phá của Việt Nam bao gồm các phát minh công nghệ, văn hóa và lịch sử. ## Lý thuyết khoa học *Phương pháp tô bóng Phong
Mặc dù có quy mô không quá lớn so với các dân tộc khác tại Việt Nam, nhưng người Xtiêng đã hình thành nên một cộng đồng gắn kết với bản sắc riêng, trở thành
Hiện nay Việt Nam có 54 dân tộc và 1 nhóm "người nước ngoài". Bản Danh mục các dân tộc Việt Nam này được Tổng cục Thống kê Việt Nam của chính phủ Việt Nam
Cối giã gạo dùng sức [[nước tại Sa Pa.]] **Cối giã gạo** là loại cối dùng để giã làm bong tróc hết cám ra khỏi hạt gạo để lấy gạo sạch làm lương thực. Cối
**Bù Gia Mập** là một huyện thuộc tỉnh Bình Phước, Việt Nam. Huyện được thành lập theo Nghị quyết số 35-NQ/CP của Chính phủ ## Địa lý Huyện Bù Gia Mập nằm ở phía đông
**Tiếng chày trên sóc Bom Bo** là một ca khúc nhạc đỏ được sáng tác bởi nhạc sĩ Xuân Hồng. Ca khúc đã khiến cho địa danh sóc Bom Bo tại tỉnh Phước Long (nay
**Tây Ninh** là một tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ, Việt Nam. Tây Ninh nằm ở vị trí cầu nối giữa Thành phố Hồ Chí Minh và thủ đô Phnôm Pênh, vương quốc Campuchia và
nhỏ|phải|Nghi thức cầu mưa với vũ điệu tế lễ nữ thần [[Dodola, một nghi lễ nhảy múa, ca hát của những cô gái người Moldova]] **Cầu mưa** hay **phép làm mưa** (_Rainmaking_) là một nghi
**Tê giác một sừng Việt Nam** (Danh pháp khoa học: _Rhinoceros sondaicus annamiticus_) là một phân loài của loài tê giác một sừng (Rhinoceros sondaicus) phân bố ở Việt Nam sống ở Việt Nam, Lào,
**Bù Đăng** là một huyện cũ thuộc tỉnh Bình Phước cũ, Việt Nam. Huyện lị là thị trấn Đức Phong. Trong huyện Bù Đăng có sóc Bom Bo nổi tiếng của người Xtiêng, được nhắc
**Điểu Ong** (1939 - 1969) sinh ra trong một gia đình nông dân Xtiêng nghèo tại sóc Bù Ló, xã 5 (nay là thôn 4, xã Thống Nhất, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước). Chứng
**Thác Đứng** là thác trên dòng Đăk Oa tại vùng đất hai xã Đoàn Kết và Minh Hưng, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước, Việt Nam. ## Địa lý Thác Đứng được hình thành bởi
**Nhóm ngôn ngữ Bahnar** là một nhóm 30 ngôn ngữ, được nói bởi chừng 700.000 người ở Việt Nam, Campuchia, và Lào. Hầu hết ngôn ngữ trong nhóm này đều khá điển hình cho ngữ
**Tin Lành** (chữ Anh: _Protestantism in Vietnam_), là một tôn giáo thuộc Cơ Đốc giáo được truyền vào Việt Nam từ đầu thế kỉ XX và hiện là một cộng đồng tôn giáo thiểu số,
**Bình Phước** là một tỉnh cũ thuộc vùng Đông Nam Bộ, Việt Nam. Trước năm 2025, đây từng là tỉnh có diện tích lớn nhất Nam Bộ. Tỉnh lỵ của Bình Phước là thành phố
**Cát Tiên** là một huyện cũ thuộc tỉnh Lâm Đồng, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Cát Tiên nằm ở phía tây nam tỉnh Lâm Đồng, có vị trí địa lý: *Phía đông giáp huyện
**Ninh Hòa** là một thị xã ven biển thuộc tỉnh Khánh Hòa, Việt Nam. Thị xã Ninh Hòa được biết đến với nhiều danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử như: bãi biển
**Bảo tàng văn hoá các dân tộc Việt Nam** là một thiết chế văn hoá được xây dựng từ năm 1960, nằm giữa trung tâm thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên, cách thủ đô
**Quảng Đức** là một tỉnh cũ của Việt Nam Cộng hòa nằm trên cao nguyên Mơ Nông. ## Địa lý Tỉnh Quảng Đức nằm ở phía tây nam vùng Tây Nguyên, có vị trí địa
**Tiếng Phương** (hay tiếng Katu Đông, Katu Thượng) là ngôn ngữ của người Cơ Tu sống ở miền Trung Việt Nam tại các tỉnh Quảng Nam, Thừa Thiên Huế và Đà Nẵng, là ngôn ngữ
Trong các dân tộc thiểu số Việt Nam chỉ có một vài dân tộc được phát hiện là có sử thi. Ở Tây Nguyên, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam đã sưu tầm và