Mộ Họ Ngọ (còn gọi là Linh Quang Từ, Ngọ tướng công chi mộ), di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia, được công nhận theo Quyết định số 29/QĐ-BHV ngày 13 tháng 1 năm 1964 của Bộ văn hóa , thuộc làng Thái Thọ, xã Thái Sơn, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang (xưa thuộc tổng Quế Trạo, huyện Hiệp Hòa, phủ Bắc Hà, xứ Kinh Bắc). Ngày 28 tháng 3 năm 1996 nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chính thức cấp Bằng công nhận di tích lịch sử - văn hóa cho Lăng đá họ Ngọ (Ảnh 10).
Lịch sử
Lăng Họ Ngọ xây dựng năm 1697 (xây trước Lăng Dinh Hương, trước tất cả các lăng mộ vua Nguyễn ở Huế), trùng tu 1714, nơi lưu giữ di hài Phương quận công Ngọ Công Quế và là nơi thờ cúng quận công cùng tiên tổ họ Ngọ. Vua Lê có sắc phong cho ông: Linh ứng cương nghị minh đạt đức hậu chính thần.
Cha của ông là Phúc an hầu Ngọ Công Tuấn giữ chức Thái Nguyên xứ tham tán và được huân phong: Tướng công hiển cung đại phu, tham đốc thái vũ, tử vệ quân sự vụ. Ông nội là Thái sơn hầu Ngọ Công Văn và được phong tặng: Vũ liệt tướng quân, tham đốc thần vũ, tử vệ quân sự vụ.
Niên hiệu Chính Hòa thứ 18 năm Đinh Sửu (1697) triều đại Lê Hy Tông ông được huân phong: Đặc tiến kim tử, vinh lộc đại phu, giữ chức phó tả thị nội thư, tả binh phiên, tư lễ giám, Đô thái giám và được phong tước Lộc hầu. Năm Quý Tỵ (1713) ông làm quan trấn thủ Thái Nguyên xứ, đồng giữ chức tư lễ giám, Bắc quân đô đốc phủ, được huân phong: Đặc tiến phụ quốc, Thượng tướng quân, tả đô đốc, tước Phương quận công. Trên bia đá ở lăng còn ghi rõ bằng chữ Hán: "Phụng sai Thái Nguyên sứ trấn cai quản đặc tiến phụ quốc Thượng tướng quân, tư lễ giám Tổng thái giám bắc quân Đô đốc phủ, đô đốc kiêm sự, gia phong tặng Tả đô đốc Phương quận công, Ngọ tướng công, húy Quế" (Ảnh 11).
Ngọ Công Quế là bậc văn võ song toàn, tư cách khoan hòa độ lượng, với việc nước thì tận tâm phụng sự, với quê hương ông hết lòng quan tâm giúp đỡ. Thời làm quan ông được bề trên rất sùng ái tin cậy. Vì có nhiều công lao trong việc dẹp loạn, an dân nên ông được triều đình vương phủ ban thưởng rất hậu. Ông đem bổng lộc đó về quê tu bổ, xây dựng những công trình công cộng như đình chùa, cầu cống (như Đình Chèo và Chùa Chèo). Dân tổng Quế Trạo ngày ấy hết lòng sùng kính và tôn ông làm hậu thần thờ phối hưởng cùng Thành hoàng ở đình làng.
Kiến trúc
Lăng do chính Ngọ Công Quế xây dựng vào năm 1697 dưới triều vua Lê Hy Tông (1676 - 1705). Lúc đầu ông định xây dựng bằng đá xanh, nhưng sau sợ đá xanh dễ bị cậy để nung vôi nên ông đã quyết định xây bằng đá muối và đá ong lấy ở núi IA cách đó khoảng 1,5 km. Ông thuê thợ đánh đá và đục chạm ngay tại chỗ theo quy cách rồi mới chuyển về lăng. Một lần, khi xe chở voi đá, ngựa đá qua cửa đền IA thờ Thánh Hùng Linh Công thì không sao nhúc nhích lên được. Ngọ Công Quế làm lễ tạ và cúng vào Đền IA đôi ngựa đá và đôi voi . Từ đó việc đánh đá xây Lăng mới trôi chảy.
Lăng hình chữ nhật theo hướng Nam với diện tích khoảng trên 1 sào (400 m²), trước khu lăng có ao hình chữ nhật. Bốn mặt khu đất trước kia có tường xây bằng đá ong, nay ba mặt tường phía Bắc - Đông - Tây bằng đá ong đã bị phá huỷ gần hết và xây lại bằng gạch, tường phía Nam bằng đá ong còn tương đối nguyên vẹn và cao 2,15 m (Ảnh 1, 2 và 3).
Cổng dẫn vào lăng xây kiểu vòm cuốn, hai bên nền khung cửa có chạm nổi hai võ sĩ, rìa cổng có hai con chó đá (Ảnh 1).
Trên khu đất trước phần mộ là hai dãy tượng chầu được bố cục đăng đối hai bên đường thần đạo: hai con voi phục (Ảnh 2, Ảnh 3), hai cặp người đứng cạnh ngựa, hai con sấu (Ảnh 4, Ảnh 5). Trước phần mộ là một hương án để tế lễ, cạnh hương án có hai con nghê ngồi chầu và ngẩng cao đầu. Hai bên hương án còn có hai bàn đá dùng để đặt các đồ tế lễ (Ảnh 6 và 12). Sau hướng án và trước cổng vào phần mộ có một bàn đá to thấp, dùng để trải chiếu và đặt đồ lễ trong những ngày tế lễ (Ảnh 7).
Đằng sau hương án là cổng vào phần mộ có mặt bằng 15,1 m x 12,5 m có tường đá bao quanh cao 1,9 m. Trên nền cổng phần mộ chạm hai người đứng hầu, trên cổng khắc chữ "Linh Quang Từ" (Ảnh 7). Trung tâm phần mộ là một tháp đá hình vuông với hai tầng mái, tầng hai có cửa bốn mặt, chóp hình vuông, bốn góc các mái cong như mũi hài (Ảnh 8).
Ở phía bắc phần mộ là nhà bia, cấu trúc kiểu tháp đá bốn mặt giống tháp mộ nhưng nhỏ hơn, 4 mặt có trổ cửa tò vò, mỗi mặt ở phía dưới có hình hai con lân ngồi chầu (Ảnh 9). Bia đá cao 1,25m không kể mái, dài 1m, rộng 0,50m, trên khắc "Linh Quang Từ chỉ bi ký", niên hiệu Chính Hòa thứ 18 (1697) và niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ nhất (1705). Bốn mặt bia khắc chữ Hán nôm, nội dung bia tóm lược công đức của Ngọ tướng công với nước, với quê hương, thời gian xây dựng lăng 1697 và trùng tu lăng vào năm 1714.
Lăng họ Ngọ là một công trình kiến trúc đồ sộ được chạm khắc đá công phu với tài nghệ điêu luyện tinh xảo, là công trình điêu khắc nghệ thuật đá tiêu biểu hạng nhất ở tỉnh Bắc Giang.
Hình ảnh
Hình:LHN Cong.JPG|1. Cổng vào lăng
Hình:LHN VoiPhai.JPG|2. Voi đá phục bên phải
Hình:LHN VoiTrai.JPG|3. Voi đá phục bên trái
Hình:LHN NguaPhai.JPG|4. Tượng người, ngựa, sấu đá bên phải
Hình:LHN NguaTrai.JPG|5. Tượng người, ngựa, sấu đá bên trái
Hình:LHN Tho.JPG|6. Bàn đá, nghê, hương án
Hình:LHN CongMo.JPG|7. Bàn đá, cổng mộ
Hình:LHN Mo.JPG|8. Tháp mộ, cổng mộ
Hình:LHN Bia.JPG|9. Tháp bia
Hình:LHN Bang.JPG|10. Bằng công nhận di tích
Hình:LHN GioiThieu.JPG|11. Giới thiệu di tích
Hình:LHN HuongAn.JPG|12. Hương án nhìn chính diện
Chú ý: hãy nháy chuột vào các ảnh để xem ảnh cỡ lớn và rõ trong Wikimedia commons.
Tình trạng
Các cổ vật trong lăng được giữ gìn tương đối nguyên vẹn. Do nạn đào trộm cổ vật quá lộng hành nên anh Ngọ Văn Tuyến (cháu đích tôn đời thứ 13 của Phương Quận công Ngọ Công Quế) phải dựng nhà mới cạnh khu mộ để tiện trông nom, anh phải nuôi tới gần một tiểu đội chó to để canh trộm. Rất tiếc cuốn gia phả họ Ngọ không còn nữa nên hiện nay khó biết chi tiết cuộc đời của Phương tướng công Ngọ Công Quế và ngày sinh cùng ngày mất của ông. Theo anh Tuyến kể: trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, tiểu đoàn bộ đội Thiên Đức đóng ở làng, quân Pháp tấn công, khi chạy tản cư gia đình đã giấu cuốn gia phả vào đống rơm, quân Pháp tới đã đốt cả nhà và đống rơm nên cuốn gia phả bị cháy mất.
Nhìn chung khu lăng đã bị xuống cấp nghiêm trọng, rất cần sự đầu tư của nhà nước để trùng tu lại nhằm giữ gìn một di tích kiến trúc nghệ thuật quý hiếm cấp quốc gia. Với thu nhập của một nông dân như anh Tuyến thuộc vùng quê hẻo lánh thật khó có điều kiện để trùng tu lại di tích.
Đường tham quan
Cách đi tới Lăng Họ Ngọ: từ Hà Nội theo quốc lộ 3 về hướng bắc tới ngã ba Nỉ, rẽ phải theo tỉnh lộ 296 khoảng 15km thì tới trung tâm thị trấn Thắng, đi dọc theo phố Thắng cũ và đi tiếp về hướng Tây Bắc khoảng 6 km thì tới làng Thái Thọ, xã Hùng Thái.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Mộ Họ Ngọ** (còn gọi là **Linh Quang Từ, Ngọ tướng công chi mộ**), di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia, được công nhận theo Quyết định số 29/QĐ-BHV ngày 13 tháng 1
**Ngô Thế Linh** (1928-1999) là đại tá Quân lực Việt Nam Cộng hòa, phó giám đốc Nha Kỹ thuật, là một nhân vật chính yếu của guồng máy tình báo Việt Nam Cộng hòa. ##
**Ngô** (chữ Hán phồn thể: 吳; chữ Hán giản thể: 吴; Hangul: 오; Latin: "Ng", "Wu", "O", "Oh") là một họ người phổ biến tại Trung Quốc, Việt Nam, và Triều Tiên. Tại Việt Nam
**Ngô Kỳ Long** (sinh ngày 31 tháng 10 năm 1970) là nam ca sĩ và diễn viên người Đài Loan. ## Tiểu sử Kỳ Long là con thứ 2 trong gia đình họ Ngô với
**Micae Ngô Đình Khả** (chữ Hán: 吳廷可; 1856 – 1923) là một quan đại thần nhà Nguyễn. Ông được biết đến như một đại thần đã cộng tác với Pháp để đàn áp cuộc khởi
**Ngô Cát Tôn** (sinh ngày 10 tháng 10 năm 1979) là nam ca sĩ, diễn viên, huấn luyện viên thể hình người Brunei gốc Hoa ở Kim Môn, tỉnh Phúc Kiến, thành viên của nhóm
**Ngô Thì Sĩ** hay **Ngô Sĩ** (chữ Hán: 吳時仕, 1726 - 1780), tự **Thế Lộc**, hiệu **Ngọ Phong** (午峰), đạo hiệu **Nhị Thanh cư sĩ**, là nhà sử học, nhà văn, nhà thơ nổi tiếng
nhỏ|phải|Một con hổ dữ nhỏ|phải|Một con [[hổ Sumatra, chúng là phân loài hổ có thể hình nhỏ nhất nhưng lại hung hăng và tích cực tấn công con người]] **Hổ vồ người** (hay **hổ vồ
Sơ đồ vị trí [[12 sứ quân]] **Ngô Nhật Khánh** (chữ Hán: 吳日慶; ? - 979), Tước hiệu **Ngô Lãm công** (吳覽公) hoặc **Ngô An vương** (吳安王), là một thủ lĩnh thời 12 sứ quân
thumb|Lăng [[Ngô Quyền ở thôn Cam Lâm trong Làng cổ Đường Lâm, thuộc thị xã Sơn Tây (Hà Nội, Việt Nam).]] **Lăng Ngô Quyền** (898 - 944) hay **Tiền Ngô Vương Lăng** (前吳王陵) là quần
**Làng nghề** là một đơn vị hành chính cổ xưa mà cũng có nghĩa là một nơi quần cư đông người, sinh hoạt có tổ chức, có kỷ cương tập quán riêng theo nghĩa rộng.
**Giuse Ngô Quang Kiệt** (sinh ngày 4 tháng 9 năm 1952) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam, từng đảm trách nhiều vai trò quan trọng đối với cộng đồng Công giáo
**Ngô Xương Xí** (chữ Hán: 吳昌熾), còn gọi là **Ngô Sứ quân** (吳使君), được chính sử ghi nhận là một trong những thủ lĩnh thời 12 sứ quân thế kỷ X. Nhiều tài liệu cho
**Ngô Thanh Vân** (sinh ngày 26 tháng 2 năm 1979), hay còn được biết đến với nghệ danh **Veronica Ngo**, là một nữ diễn viên, ca sĩ, vũ công, người mẫu, nhà làm phim kiêm
**Ngô Miễn** (chữ Hán: 吳勉, 1371 - 1407) hoặc **Ngô tướng công** (chữ Hán: 吳相公) là một danh thần nhà Hồ. Hành trạng của ông được xác thực bởi hai cuốn _Nam Ông mộng lục_
**Ngô Nguyên Tế** (chữ Hán: 吳元濟, bính âm: Wu Yuanji, 783 - 12 tháng 12 năm 817), là Tiết độ sứ tự xưng tại Chương Nghĩa dưới thời nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc.
**Ngô Đình Nhu** (7 tháng 10 năm 19102 tháng 11 năm 1963) là một nhà lưu trữ và chính trị gia người Việt Nam. Ông nổi tiếng vì danh nghĩa là vị cố vấn chính
**Hồ Tây** (với các tên gọi khác trong lịch sử như **Đầm Xác Cáo**, **Hồ Kim Ngưu**, **Lãng Bạc**, **Dâm Đàm**, **Đoài Hồ**) là hồ tự nhiên lớn nhất thành phố Hà Nội, hiện thuộc
nhỏ|phải|Đám cưới chuột nhỏ|phải|[[Lợn ỉ có xoáy Âm dương]] nhỏ|phải|Tranh "Đàn gà" hoặc "Sân gà" cầu chúc cho sự sung túc, đông con và an nhàn Tranh "_Nhân nghĩa_", với hình ảnh _Em bé trai
**Ngô gia văn phái** (, thế kỷ XVIII - thế kỷ XIX) có 2 nghĩa: # Là một nhóm các nhà văn Việt Nam thuộc dòng họ Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai, huyện
**Hồ Bắc** (, tiếng Vũ Hán: Hŭbě) là một tỉnh ở miền trung của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Giản xưng chính thức của tỉnh Hồ Bắc là "Ngạc" (鄂), lấy theo tên một
**Ngô Quang Hải** hay **Ngô Vũ Quang Hải** (sinh năm 1967 tại Hải Phòng) là nam diễn viên, đạo diễn điện ảnh người Việt Nam. Ông được biết đến khi sản xuất các phim _Chuyện
**Tôn Lãng** (), hay **Tôn Nhân** () là tướng lĩnh Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Tôn Lãng quê ở huyện Phú Xuân, quận Ngô, Dương Châu, là
**Ngô Kinh** (chữ Hán: 吳京, _Wu Jing_; tên tiếng Anh: **Jason Wu** hay **Jacky Wu**; sinh ngày 3 tháng 4 năm 1974) là một nam diễn viên, võ sĩ và đạo diễn người Trung Quốc.
**Ngô Thì Trí** (1766-?) là một danh sĩ thời Lê trung hưng, nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử **Ngô Thì Trí** là người ở làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh
**Thi Lang** (, 1621 – 1696) tự là **Tôn Hầu**, hiệu là **Trác Công**, người thôn Nha Khẩu trấn Long Hồ huyện Tấn Giang tỉnh Phúc Kiến Trung Quốc, là danh tướng thời kỳ cuối
**Đa Minh Maria Hồ Ngọc Cẩn** (1876–1948) là giám mục người Việt tiên khởi của Hạt Đại diện Tông Tòa Bùi Chu và cũng là giám mục người Việt thứ hai của Giáo hội Công
**Ngô Đức Thọ** (sinh ngày 12 tháng 12 năm 1966) là thẩm phán cao cấp người Việt Nam. Ông giữ chức vụ Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông từ tháng 10 năm
**Ngô Xương Ngập** (chữ Hán: 吳昌岌; ? - 954) là một vị vua nhà Ngô, trị vì từ 951 đến 954 cùng với em trai là Ngô Xương Văn. Sử gọi chung đó là thời
**Phêrô Máctinô Ngô Đình Thục** (6 tháng 10 năm 1897 – 13 tháng 12 năm 1984) là một Giám mục Công giáo Việt Nam. Ông từng giữ chức Đại diện Tông Tòa Hạt Đại diện
**Ngô Phù Sai** (; ? - 473 TCN) hay **Ngô vương Phù Sai** (吳王夫差), tên thật là **Cơ Phù Sai** (姬夫差), là vị vua thứ 25 của nước Ngô thời Đông Chu trong lịch sử
**Ngô Cẩn Ngôn** (sinh ngày 16 tháng 8 năm 1990) là một nữ diễn viên người Trung Quốc, nổi tiếng nhờ vai diễn Lệnh Ý Hoàng quý phi Ngụy Anh Lạc trong bộ phim _Diên
**Ngô Quang Bình** (sinh ngày 26 tháng 9 năm 1948), nghệ danh là **Ngô Thụy Miên**, là một nhạc sĩ Việt Nam từ trước năm 1975. ## Tiểu sử Nhạc sĩ Ngô Thụy Miên sinh
**Ngô Thì Hương** (; 1774-1821) còn có tên là **Vị** (位), tự **Thành Phủ** (成甫), hiệu **Ước Trai** (箹齋); là nhà văn Việt Nam ở cuối thế kỷ 18 - đầu thế kỷ 19. ##
**Làng Lâm Xuân** (ngày trước thuộc đất Địa Lý, Minh Linh, nay thuộc xã Cửa Việt, tỉnh Quảng Trị, cũ: Xã Gio Mai huyện Gio Linh tỉnh Quảng Trị) là một làng cổ ở Quảng
**Trường Sa** (tiếng Hoa giản thể: 长沙; tiếng Hoa phồn thể: 長沙; pinyin: _Chángshā_; Wade-Giles: _Chang-sha_) là thủ phủ và là thành phố đông dân nhất của tỉnh Hồ Nam, thuộc vùng Nam Trung Bộ
**Ngọ Cương Trang** là giám sát ngự sử thời Lê sơ, đỗ đồng tiến sĩ năm 1511. ## Thân thế Ngọ Cương Trang là người làng Xuân Lôi, huyện Yên Phong (Bắc Ninh). ## Sự
**Mạc** là một họ của người, có ở các quốc gia Á Đông như Trung Quốc, Việt Nam,... Riêng ở Việt Nam, có cả một triều đại phong kiến do những ông vua mang họ
**Họ người Việt Nam** gồm các họ của người dân tộc Kinh và các dân tộc thiểu số khác sống trên lãnh thổ đất nước Việt Nam. Việt Nam nằm ở khu vực Đông Nam
**Trịnh Ngô Dụng** (1684 - 1746) là đại thần nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông đỗ tam giáp đồng tiến sĩ khoa thi năm Tân Sửu (1721), niên hiệu Bảo Thái
**Ngô Thì Nhậm** hay **Ngô Thời Nhiệm** (chữ Hán: ; 25 tháng 10 năm 1746 – 1803) là một tu sĩ Phật giáo, danh sĩ, nhà văn đời Hậu Lê và Tây Sơn, có công
**Phạm Bạch Hổ** (; 910 - ?? ) tên xưng **Phạm Phòng Át** (), là võ tướng các triều nhà Ngô, nhà Đinh và là một sứ quân trong loạn 12 sứ quân cuối thời
**Ngô Tất Tố** (, 1893 – 20 tháng 4 năm 1954) là một nhà văn, nhà báo, nhà Nho học, dịch giả và nhà nghiên cứu có ảnh hưởng lớn ở Việt Nam giai đoạn
**Hồ Quý Ly** (chữ Hán: 胡季犛; 1336 – 1407), tên chữ **Nhất Nguyên** (一元), là vị hoàng đế đầu tiên của nhà nước Đại Ngu trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi vị Hoàng
**Câu lạc bộ bóng đá Công an Thành phố Hồ Chí Minh** là một câu lạc bộ bóng đá có trụ sở ở Thành phố Hồ Chí Minh. Đội bóng này là hậu thân của
**Ngô Nhân Tịnh** (, 1761 – 1813), tự **Nhữ Sơn** (汝山), hiệu **Thập Anh** (拾英); là một trong "Gia Định tam gia" thuộc nhóm _Bình Dương thi xã_ (平陽詩社), và là quan triều Nguyễn trong
**Hồ Chí Minh** (chữ Nho: ; 19 tháng 5 năm 1890 – 2 tháng 9 năm 1969), tên khai sinh là **Nguyễn Sinh Cung** (chữ Nho: ), còn được gọi phổ biến tại Việt Nam
**Ngô** (吳) (229 - 1 tháng 5, 280) sử gọi là **Tôn Ngô** (孫吳) hay **Đông Ngô** (東吳) là một trong 3 quốc gia thời Tam Quốc (220-280) trong lịch sử Trung Quốc. Trước đó,
**Tiếu ngạo giang hồ** được coi là một trong những tiểu thuyết đặc sắc nhất của Kim Dung, với nhiều thành công về nội dung, cốt truyện, thủ pháp văn học. _Tiếu ngạo giang hồ_
**Ngô Hán** (chữ Hán: 吴汉, ? – 44) tự **Tử Nhan**, người huyện Uyển, quận Nam Dương , tướng lãnh, khai quốc công thần, một trong Vân Đài nhị thập bát tướng nhà Đông Hán.